Saturday, October 3, 2015

Văn và Đời và..( Chương 2)


Tác giả: Xuân Đức



  Chương 2
                CHIẾN TRANH- ĐỜI LÍNH VÀ NHỮNG TRANG VĂN ĐẦU TIÊN.

                    Người đi ! Ừ nhỉ, người đi thực !
                              Mẹ thà coi như chiếc lá bay.
                              Chị thà coi như là hạt bụi,
                              Em thà coi như hơi rượu say !
                                                                  ( Tống biệt hành – Thâm Tâm) 


Nói chính xác thì những trang viết đầu tay của tôi được bắt đầu từ thủa còn học cấp 2. Học trò cấp 2 hồi đó (từ lớp 5 đến lớp 7 theo hệ 10 năm) lớn tuổi lắm. Rất nhiều cu cậu đã biết yêu đương từ lớp 5, thậm chí cuối cấp 1 đã có dư luận thầy yêu trò..Tôi cũng không ngoại lệ. Năm lớp 7, tôi cũng đã có những sự thân thiết với bạn học con gái có vẻ gần như là tình yêu..Đương nhiên chỉ là kiểu yêu mơ mộng, thoang thoảng của tuổi học trò thôi. Và thế là tôi viết tiểu thuyết..Bản thảo tiểu thuyết ấy chỉ mới có mấy chương, bởi sau những cảm xúc thơ mộng của hai nhân vật chính thì.. không còn biết phải hư cấu cốt truyện thế nào nữa..Tôi nhớ lúc đó tôi có đọc cho một người bạn nam khá thân nghe..Cậu ta tỏ ra kinh ngạc vô cùng. Người bạn ấy tên là Lý, có lúc gọi là Cháu, là dân Thừa Thiên ra ngụ cư ở xã Vĩnh Thái, Vĩnh Linh. Nguyễn Xuân Lý là học sinh giỏi môn toán, còn tôi giỏi văn. Lý cũng thi học sinh giỏi toàn miền Bắc một kì với tôi và cũng đạt giải nhì. Đấy là năm 1963, học sinh cấp 2 Hồ Xá Vĩnh Linh bội thu. Hai tốp học sinh giỏi Toán và Văn đều giật giải cao miền Bắc. Đội toán còn có Nam đạt giải nhất. Cùng năm đó, Trần Đức Vầy, về sau đổi tên là Trần Đức Vân đang học cấp 1 ( lớp 4) đạt giải nhất về toán. Sau này, Giáo sư, tiến sĩ Trần Đức Vân trở thành tên tuổi lớn của thế giới về toán. Tiếc rằng anh mắc một căn bệnh hiểm nghèo, mà nguyên nhân nghe nói chỉ vì không đủ đạm, cả cơ thể tê liệt, chỉ còn bộ não vẫn làm việc cho đến khi bộ não cũng ngừng nốt. Vân mất khi tuổi còn khá trẻ.

Nguyễn Xuân Lý học toán giỏi nhưng văn thì rất thường, còn tôi môn toán cũng được xếp loại giỏi. Vì vậy nhiều hoạt động của đội giỏi toán tôi đều được nhà trường bắt phải tham gia. Tôi và Lý trở nên thân nhau vì lẽ đó..Thậm chí, năm 1964, khi trường cấp 3 Vĩnh Linh có một phân hiệu sơ tán về Vĩnh Hòa, Lý đã ở trọ ngay trong nhà tôi..Tuy nhiên chỉ sau một thời gian ngắn, cả hai thằng đều nhận thấy, hai đứa học giỏi mà ở chung thì chỉ tổ phá nhau, không tập trung học tập. Vì thế, Lý đã chuyển đi trọ chỗ khác.

Lý nhập ngũ quân đội sau tôi một năm. Nghe nói lúc đầu anh ta tuyển vào phi công, nhưng sau không đủ sức khỏe nên chuyển qua ra đa. Rồi chuyển ngành đi học Liên Xô..Khi chúng tôi gặp lại nhau, vào cái thời tôi khốn khó nhất thì Nguyễn Xuân Lý đã là cán bộ cao cấp của tỉnh Bình Trị Thiên, chức Chủ tịch Liên đoàn lao động tỉnh..Khi Bình Trị Thiên chia tách, Lý làm Phó Chủ tịch trực của tỉnh Thừa Thiên Huế. Tôi về làm Giám đốc sở VHTT Quảng Trị. Rồi Lý lên Chủ tịch tỉnh, có ra Quảng Trị vài lần với tư cách khách mời trong các dịp lễ lạc. Tuy nhiên những lần gặp đó, cử chỉ của Lý đối với tôi là rất “ xã giao”. Tôi biết ý cũng giữ một thái độ “vừa phải”. Không chỉ với riêng tôi, quan hệ của Lý đối với tất cả đám bạn học ngày trước trên địa bàn Quảng Trị đều có cung cách xã giao như vậy. Có lẽ cũng nên thông cảm cho Lý. Con người ta khi đã ở một vị trí cao thì thường có cung cách ứng xử làm sao để “ quan trên nhìn xuống, người ta nhìn vào”. Điều đáng buồn là, sau khi đã nghỉ hưu, trong mấy lượt kỉ niệm ngày truyền thống trường cấp 3 Vĩnh Linh, Lý có về dự nhưng khi gặp đám bạn như chúng tôi, Lý vẫn rất xã giao, chào to, cười lớn, sau đó lại tách riêng, không bù khú với đám bạn học cũ mà lại hẹn hò với mấy quan cỡ bự của tỉnh.. Rất nhiều bạn học tỏ vẻ bực mình. Riêng tôi thì không cảm thấy gì hết. Tôi đã quá quen với những chuyện như thế.

Trở lại chuyện viết văn. Ngay từ những ngày còn học cấp 2, tôi đã tập viết kịch, dàn dựng và diễn kịch. Mấy vở kịch ngắn tôi sáng tác cho tổ văn nghệ của lớp biểu diễn tham gia vào các cuộc hội diễn của nhà trường đều được giải cao. Những người bạn diễn kịch thủa đó bây giờ vẫn còn. Lãm theo nghề giáo viên nay nghỉ hưu tại Hồ Xá. Đặc biệt Lê Mậu Đạt là bạn thân nhất, lâu bền nhất. Đạt không chỉ là bạn văn nghệ mà còn là một thành viên trong tổ học sinh giỏi văn. Sau này, Đạt là một thầy giáo dạy văn giỏi có tiếng của trường. Khi trường cấp 3 sơ tán về Vĩnh Hòa, Đạt và tôi chơi với nhau như một cặp bồ..Sau này, chúng tôi vẫn rất gần nhau. Lúc tôi gặp đại nạn, cháy sạch nhà cửa, Đạt đã đưa cho tôi chiếc giường về nằm. Lúc Đạt làm nhà, tôi cũng làm nhà, tuy thế tôi vẫn nhường cho Đạt mấy chục đòn tay bằng gỗ huệng để lợp nhà Đạt..Tôi làm Giám đốc sở văn hóa Thông tin thì Đạt giữ chức Thư kí văn xã của Ủy ban tỉnh, cho nên chúng tôi thường xuyên quan hệ với nhau. Lê Phước Long cũng là bạn học cùng khóa, sau này làm Giám đốc Sở Giáo dục đào tạo tỉnh, về hưu sau tôi 2 năm..Lại còn Điểu, Sửu, Hường, Thê..và vài bạn nữa..Bây giờ cả bọn chúng tôi đều đã nghỉ hưu, nhưng chúng tôi vẫn cứ gặp nhau, chơi với nhau như thủa còn đi học. Ở đời có được những đứa bạn tri kỉ như thế thật là may mắn.

*

Tôi nhập ngũ ngày 26-5-1965. Với cá nhân tôi, năm 1965 là cột mốc đặc biệt. Từ tháng tư, bom Mỹ đã ném tràn lan khắp Miền Bắc. Trường cấp 3 Vĩnh Linh trúng bom. Một thầy giáo và 8 học sinh bị chết. Đấy là một sự kiện không thể nào quên. Tôi đang học lớp 9b. Bình thường lớp tôi học buổi chiều. Không hiểu sao, đúng ngày đó ( chứ không phải sớm hơn hoặc muộn hơn), lớp 9b lại chuyển qua học sáng. Chiều đó chừng khoảng 4 giờ chiều, đứng ở Vĩnh Hòa nhìn lên thấy máy bay bổ nhào, bom nổ và khói bụi đùn cao đen sịt cả bầu trời..Sáng ngày mai tôi mới biết tin xấu..Ngay sau sự kiện đó, trường cấp 3 Vĩnh Linh được chia nhỏ thành mấy Phân hiệu sơ tán về các vùng nông thôn. Phân hiệu có lớp của tôi chuyển về Vĩnh Hòa, sát cạnh nhà của tôi..Học thêm hơn một tháng nữa thì tôi được gọi nhập ngũ.

Ấn tượng của một học sinh cấp 3 như tôi đối với năm 1965 chỉ có vậy. Mãi sau này, khi bắt tay chuẩn bị viết tiểu thuyết Cửa Gió và kịch bản phim truyền hình Đối mặt, tôi buộc phải đọc tài liệu chiến sự về năm 1965, thì mới nhận ra cái cột mốc đặc biệt lúc đó đối với lịch sử chiến tranh Việt Nam. Đấy là năm đánh dấu bước ngoặt rất quan trọng trong ý đồ chiến lược của các nhà lãnh đạo Miền Bắc đối với cuộc chiến ở Miền Nam.

Ở chiến trường Miền Nam, Mỹ đã ồ ạt đổ quân, lúc cao nhất lên đến 50 vạn. Tên tướng Oét-mo-len bay sang Sài Gòn và đưa ra chiến dich 5 mũi tên nhằm triệt phá chớp nhoáng các vùng giải phóng..Trước thế cuộc đó, những nhà lãnh đạo Hà Nội đưa ra quyết định mở chiến dịch đường Chín, bắc Quảng Trị nhằm kéo quân Mỹ ra sát Miền Bắc để đối mặt với các lực lượng chính quy của bộ đội ta. Tiểu đoàn 47 thuộc Bộ tư lệnh Vĩnh Linh được thành lập trong thế cờ đó. Và tôi là một trong những thằng lính đầu tiên của tiểu đoàn.

Cần nói rõ một chút về đơn vị này, vì nó sẽ còn ám ảnh lâu dài và sâu sắc đến những trang viết của tôi trong suốt cả cuộc đời viết văn, và cả những chuyện lằng nhằng, rắc rối ngoài văn chương mà tôi buộc phải nhắc tới ở phần sau cuốn sách này.

Khi Vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước thì huyện Vĩnh Linh, mảnh đất tiền đồn của Miền Bắc, được đôn lên thành một đơn vị hành chính ngang cấp tỉnh với tên gọi Đặc khu Vĩnh Linh. Theo đó, mọi đơn vị khác trong huyện đều được gọi kèm theo tiếng “ khu” như Khu ủy, Khu đội..Lực lượng vũ trang trên địa bàn bao gồm Khu đội chủ yếu phụ trách lực lượng dân quân du kích, còn bộ đội chính quy thì có Trung đoàn 270, là lực lượng bộ đội bảo vệ giới tuyến đã có mặt rất sớm ở mảnh đất này. Ngoài ra còn lực lượng gọi là Công an vũ trang, tức bộ đội biên phòng hiện nay, chủ yếu làm nhiệm vụ canh gác ở cầu Hiền Lương, Cửa Tùng và chốt giữ một số đồn biên phòng trên miền tây. Về sau lực lượng này sáp nhập vào công an.

Tiểu đoàn 47 được thành lập lúc đầu là đơn vị của Khu đội Vĩnh Linh. Chúng tôi tập trung tại xã Vĩnh Hòa, sau đó nhận quân trang ở trong Rú Lịnh, một khóm rừng nguyên sinh hiếm hoi còn sót lại giữa vùng đất đỏ Vĩnh Hòa. Tiếp đến, toàn tiểu đoàn được di chuyển về Vĩnh Thạch, một xã sát biển để huấn luyện. Quả thật tôi không sao lường trước được những nỗi nhọc nhằn của cuộc đời người lính. Chưa hề biết đến chiến đấu, chỉ mới lăn lê bò toài, hay nửa đêm bị thức dậy đứng gác, hay tập báo động, khuân vác nặng chạy dưới đường hào, vân vân..cũng đủ để cho một cậu học sinh với thân hình nhỏ nhoi như tôi cảm thấy không sao chịu nổi. Bao nhiêu mơ mộng về một cuộc sống đượm chất anh hào từng tưởng tượng ra khi còn ngồi trên ghế nhà trường bỗng tắt lịm, thay vào đó là nỗi vất vả ê chề, cam chịu qua từng đêm, từng ngày…Thế nên khi bất ngờ được gọi lên Khu đội bộ, dù chưa biết sẽ làm việc gì tôi cũng có cảm giác như kẻ bị ngạt thở trong buồng kín được thoát ra ngoài.

Nguyên nhân Khu đội điều tôi lên cơ quan là vì lúc ấy ban Binh vận thiếu một trợ lí có thể viết được các bài binh vận. Họ lục tìm trong đống hồ sơ tân binh của tiểu đoàn, biết tôi là học sinh giỏi văn nên quyết định điều động. Khi gặp thủ trưởng Đạt, Trưởng ban, ông ấy nói rõ cho tôi biết yêu cầu công việc rồi ngay lập tức giao bài bảo tôi viết thử, nếu thấy đạt yêu cầu thì chính thức giữ lại. ( Cơ quan Khu đội lúc đó có hai ông cùng tên Đạt. Trần Thanh Đạt, người thôn Tùng Luật, xã Vĩnh Giang, hàm thiếu tá là Khu đội trưởng. Còn ông Đạt mà tôi đang nói là Trưởng ban Binh vận). Lúc đó tôi rất lo sợ bởi dù cũng có chút năng khiếu văn chương nhưng là thứ văn học trò, tôi không hình dung được phải viết thế nào cho ra dáng văn chính trị, để có thể đạt được yêu cầu tuyên truyền cho binh lính bên kia tuyến “nhận ra chân lí”. Lo thì lo, nhưng không thể lo bằng việc bị trả trở lại đơn vị để đêm đêm phải thức dậy đứng gác, ngày ngày phải tập lăn lê bò toài rồi mang vác đến vẹo cả sườn hành quân dã chiến.. Tôi thức suốt đêm nghĩ kế. Rồi tôi chợt nhớ lại, dạo còn đi học, mỗi lần bị ép phải viết một vở kịch ngắn cho văn nghệ của lớp diễn, tôi thường lục lọi tìm đọc mấy vở kịch của những tác giả chuyên nghiệp, sau đó bịa ra một câu chuyện tương tự nhưng khác đề tài, cũng bắt chước gần giống các tình tiết của kịch người ta để tạo ra kịch của mình..Bây giờ người ta gọi thứ đó là đạo văn. Nhưng hồi đó, tôi chỉ là học sinh, hơn nữa viết kịch cho văn nghệ nhà trường diễn chứ đâu phải đăng báo chí gì mà sợ. Mấy lại, cái loại kịch bản được đăng đâu đó rất ít kẻ đọc nên hầu như không ai biết. Nếu kể về nghề viết kịch, tôi đã bắt đầu bằng cách ăn cắp như vậy.

Trở lại chuyện viết bài binh vận. Tôi nhớ tới mẹo ăn cắp kịch nên mới đến gặp thủ trưởng Đạt, nói: Thủ trưởng cho em mượn đọc ít bài của thủ trưởng để học tập, rút kinh nghiệm. Ông Đạt Trưởng ban khen, cậu rất biết cầu thị đấy, rồi xởi lởi đưa cho tôi cả đống bài. Tôi vùi đầu đọc suốt đêm..Thế là tôi đã biết được cái kiểu hành văn, kiểu lập luận của bậc tiền bối..Và tôi bắt đầu bịa theo đúng cái cách mà các bài viết của thủ trưởng đã viết. Ngay từ bài đầu, tôi đã được chính ông Trưởng ban khen. Coi như đã vượt qua kì sát hạch, tôi chính thức trở thành trợ lí ban Binh vận.Tôi đã viết rất nhiều bài. Không biết có tên lính ngụy nào bên kia giới tuyến đã nghe mấy cái bài của tôi phát trên sóng phát thanh rồi buông súng “ trở về chính nghĩa” không? Điều quan trọng là tôi đã trở thành một trợ lí ban Binh vận, được ngồi viết bài “chuyên nghiệp” khi còn đeo quân hàm binh nhì và tuổi đời chỉ mới 18. Có trợ lí nào trong quân đội non trẻ như tôi nữa không?
Tuy nhiên, nói như người xưa : ngày vui ngắn chẳng tày gang, tôi chỉ được làm chức trợ lí chưa tới một tháng thì cơ quan Khu đội gặp sự cố. Tôi không còn nhớ rõ lúc ấy bếp ăn của cơ quan xẩy ra chuyện gì, hình như anh Quản lí có vấn đề gì đó nên buộc phải bị điều đi..Nhà bếp không có người làm Quản lí. Các thủ trưởng loay hoay tìm người. Cơ quan Khu đội có rất ít nhân lực, đa phần là sĩ quan, họ đều có chức trách quan trọng ở các ban như ban Tham mưu tác chiến, ban Chính trị, ban Hậu cần, Thông tin, Cơ yếu..Còn nếu là lính thì chỉ mấy anh làm liên lạc, cần vụ cho thủ trưởng, hoặc lính thông tin, nấu ăn..Những cậu lính ấy hoàn toàn không có trình độ văn hóa để làm Quản lí. Thế là..sứ mạng lịch sử lại đặt lên vai tôi. Binh nhì Nguyễn Xuân Đức được điều động từ ban Dân vận sang ban Hậu cần và “được bổ nhiệm” làm Quản lí bếp ăn cơ quan. Tôi hoang mang lo sợ vô cùng. Nhưng ông Bảo, trung úy, người có căn bệnh đau đầu kinh niên, lúc nào cũng xuýt xoa nhăn nhó, lúc đó là Trưởng phòng tài vụ của Ban hậu cần đã kịp giảng dạy cho tôi mấy nghiệp vụ cơ bản, chủ yếu là cách ghi sổ trong các cột: có, nợ, thu, chi v..v..Lớp “tập huấn” diễn ra chừng vài chục phút, xong, tôi nghiễm nhiên trở thành Quản lí.

Kể ra, so với cái chức trợ lí bên ban Dân vận thì chức Quản lí bên Hậu cần có phần “oai” hơn. Trợ lí thì chỉ là trợ lí, giúp việc..Còn cái chức trách Quản lí trong đợn vị bộ đội gần giống như kế toán hiện nay ở một đơn vị hành chính, nhưng có khác ở chỗ, kế toán chỉ làm tham mưu chi tiền, nhưng muốn chi lại cần có chữ kí Thủ trưởng, còn Quản lí tức là đã có cả quyền hạn của người quyết định chi, tất nhiên là chi trong khuôn khổ bếp ăn và phân phối các hàng hóa, nhu yếu phẩm. Quản lí ít nhất cũng được coi là “thủ trưởng” của ba bốn cậu lính nấu ăn, được ra lệnh, thậm chí là cáu gắt nữa..Mấy sĩ quan với quân hàm thiếu úy, trung úy ở các ban thường xuống bếp, khi thì xin ớt, hành, khi thì nài nỉ mua chịu thứ gì đó..đôi lúc còn xin ứng trước tem phiếu đường sữa của tháng sau nữa..Họ thường cười đùa rất “ thân ái” với Quản lí. Có anh còn xưng hô : báo cáo thủ trưởng Đức..Dĩ nhiên tôi biết họ chỉ gọi đùa, nhưng vẫn thấy khoái.

Cơ quan Khu đội đóng ở một triền đất ngoài cùng của xã Vĩnh Hiền, giáp xã Vĩnh Thành. Xóm đó gọi là xóm Tân Phúc, có giếng mội ba vòi nước mát lạnh và trong suốt quanh năm. Gọi là giếng mội ba vòi vì nước ở đây bắt nguồn từ một mạch ngầm rất lớn gọi là mội, được người đời xưa dùng đá xếp quanh thành một bể chứa rồi đặt ba máng dẫn bằng đá để tạo thành ba vòi nước chảy ra.. Sau này, khi có điều kiện nghiên cứu về văn hóa Quảng Trị, tôi mới hiểu, giếng mội ba vòi ở Vĩnh Hiền cùng với nhiều giếng cổ vùng Gio An- Gio Linh chính là hệ thống thủy lợi tiêu biểu của người Chăm, được gọi bằng cái tên hệ thống thủy lợi dẫn thủy nhập điền.

Xóm Tân Phúc cũng là xóm ở của chị đầu của tôi. Từ bếp ăn của Khu đội lên nhà chị gái tôi chỉ cách chừng vài trăm mét. Công việc của một Quản lí rất nhàn, buổi sáng xuất kho cho nuôi quân ( bao gồm gạo, thực phẩm theo thực đơn của bếp), xong là đi tìm nguồn thực phẩm trong các thôn xóm, các xã lân cạnh để nhập về. Đấy là cái cớ cho tôi đi chơi, hoặc về nhà chị gái vui đùa với các cháu. Tôi được trang bị một khẩu súng ngắn, mặc dù đi lại trên đất Vĩnh Linh chẳng hề cần đến vũ khí nhưng lúc nào tôi cũng mang lủng lắng bên hông. Thử tưởng tượng xem, một anh lính trẻ măng ( mới 18 tuổi mà), không bao giờ đeo quân hàm trên ve áo ( vì chỉ là binh nhì), bên hông thường xuyên có khẩu súng lục thì làm sao không hãnh diện được..Tóm lại, mấy tháng làm Quản lí bếp ăn ở cơ quan Khu đội là quãng thời gian “vẻ vang và sang trọng” nhất trong đời lính của tôi. Và tôi chợt nghĩ, làm lính mà thế này mình có thể ở đến trọn đời vẫn không chán!!!

Tôi không thể ngờ rằng, ngay trong những ngày tôi cứ mải rinh rang ngất ngưởng đi khắp các làng quê với khẩu súng lục bên hông, thì Khu đội Vĩnh Linh, mà nói chính xác là mấy vị Chỉ huy Khu đội đang phải đôn đáo, nháo nhác với một quyết định lịch sử. Đấy là việc cấp trên quyết định sáp nhập Khu đội với Trung đoàn 270 để ra đời một cơ quan chỉ huy mới. Đấy là Bộ tư lệnh Vĩnh Linh. Lẽ đời xưa nay việc sáp nhập hay chia tách các đơn vị bao giờ cũng mang theo việc sắp xếp lãnh đạo, mà phần hơn thuộc về anh lớn, phần thiệt anh bé phải chịu. Khu đội nếu so vai vế thì rõ ràng là vai dưới của Trung đoàn 270. Vì vậy, cuối cùng ông Thiếu tá Trần Thanh Đạt, Khu đội trưởng chỉ nhận được chức Phó tư lệnh và cũng chỉ tạm bợ thời gian ngắn sau đó đi đâu mất, còn ông Đại úy Trần Tình, Chính trị viên Khu đội được xếp làm Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh. Còn lại một loạt các sĩ quan khác trong cơ quan Khu đội coi như tan loãng vào các ban, các phòng của cơ quan mới và đều chỉ được làm trợ lí hoặc cấp phó của các ban..Tôi chẳng nhớ gì về họ, chỉ nhớ mỗi ông Tình vì có chuyện liên quan trực tiếp đến cuộc đời tôi. Việc sáp nhập đơn vị rồi phân chia vị trí công tác mới là chuyện của mấy vị chỉ huy và hàng ngũ các sĩ quan, trợ lí..Loại lính tráng binh nhì như tôi đâu có biết gì..Cả gần chục ngày trời, tôi thấy cán bộ các ban liên tục xuống bếp xin ứng đủ mọi thứ, từ tem đường, sữa, bột ngọt..thậm chí cả gạo, nước mắm..Họ rất niềm nở với Quản lí..Số người xưng “ thủ trưởng” với tôi cũng tăng lên cùng với những nụ cười vô cùng thân thiện..Tất nhiên tôi thấy khoái và vì thế mà rất dễ tính..Tôi đã cho họ ứng rất nhiều..Không một ai trong số họ hé lộ cho tôi biết chuyện gì sắp xẩy ra..Thế rồi bất ngờ một buổi sáng, lệnh của Ban hậu cần yêu cầu kiểm kho, kiểm quỹ..Những việc đó thường chỉ làm vào cuối tháng..Tôi cảm thấy rất bất ngờ..Rồi cái gì đến cũng đã đến. Bếp ăn bị thâm hụt một khoản lớn.( Bây giờ tôi không còn nhớ chi tiết là thâm bao nhiêu). Ông Tình gọi tôi lên hỏi, vì sao thâm. Tôi đưa cuốn sổ nợ ra, báo cáo với thủ trưởng yêu cầu các sĩ quan ở các ban phải trả hoặc tháng sau từ tiêu chuẩn của họ. Ông Tình nói làm gì có tháng sau, họ đã được điều chuyển đi nhận công tác nơi khác hết rồi..Bấy giờ tôi mới ngã ngửa ra..Ông Tình ra lệnh gọn lỏn: thâm thì Quản lí phải đền. Tôi kêu lên, em lấy tiền đâu ra mà đền? Ông Tình gợi ý: về nhà xin bố!

Bữa nay, chuyện tham ô, tham nhũng hay làm thất thoát tiền bạc là chuyện như cơm bữa. Nhưng ngày đó, đây là chuyện động trời. Vì thế mà tôi gần như sụp đổ. Những ngày tiếp theo, tôi cứ ngẩn ngơ như kẻ ốm nặng mới gượng dậy..Cả cơ quan tan hoang, vắng vẻ..Mọi người đã kéo nhau đi về đơn vị mới..Tôi qua nhà chị gái nằm vật ra giường, chẳng thiết ăn uống gì nữa..

Bây giờ mỗi lần nhớ lại sự việc ấy, tôi cứ giận mãi mình sao lại ngu và ngơ đến vậy..Cái mệnh lệnh đền bù mà ông Chính trị viên Tình phát ra chỉ để tỏ rõ uy lực cuối cùng của ông ấy chứ đâu có hiệu lực gì..Có ai quan tâm gì đến số nợ của bếp ăn Khu đội nữa đâu. Từ ông Tình, ông Đạt, đến cả cái Ban Hậu cần hay Ban Chính trị đều coi như rã đám, chạy chọt tìm cho được chỗ đứng ở bên Bộ tư lệnh Vĩnh Linh..Cơ quan Khu đội coi như đã chết một cách bất đắc kỳ tử, thì thử hỏi còn ai nhớ gì mấy cân gạo, mấy tem phiếu cũ..Ngay cái kho của bếp cũng còn cả đống thực phẩm sau kiểm kê có ai thèm chuyển đi đâu..Ngay cả bản thân tôi sau đó cũng coi như bị bỏ rơi, không một ai tìm đến hỏi han nữa..Nếu lúc đó, tôi bỏ về nhà rồi đi đâu đó thì cũng sẽ chẳng còn ai biết. Ấy vậy mà tôi vẫn đau khổ, lo sợ, dằn vật..và cuối cùng đành phải chạy về nói thật với bố. Tội nghiệp cho bố..Cứ tưởng con vào bộ đội làm nên công trạng gì, ai ngờ chưa tới nửa năm đã mang về tai họa. Thế là bố cắn răng đốn hạ xuống bốn cây mít lớn trong vườn, gọi người bán như đổ đi, gom được một số tiền rồi bảo tôi cầm gấp về đền cho cơ quan. Tôi chạy trở lại cơ quan thì chỉ còn một khu đất tan hoang, vắng ngắt không bóng người. Những mái lán xiêu vẹo, im lìm dưới những tán cây dầu sở. Tôi lại về nhà chị gái, hỏi chị phải làm sao để điền tiền cho người ta. Chị tôi còn thực thà hơn cả tôi, bảo tôi tìm về nhà riêng ông Tình ở thôn Hiền Lương. Tôi mò về chỗ đó thì rất may là gặp ông..Tôi lấy tiền ra, cố giải thích số nợ và cách quy đổi từ tem phiếu ra giá trị tiền..Thủ trường nghe nhưng có vẻ không quan tâm lắm. Cuối cùng tôi đưa ra một nắm tiền ( tôi không còn nhớ bao nhiêu) tương ứng với sự quy đổi mà tôi đã giải thích. Tôi vẫn còn lo sợ ông ấy cò kè, không chấp nhận. Không ngờ ông ấy lại tỏ ra chẳng quan tâm gì, cầm lấy xấp tiền cất vào túi rồi nói tỉnh bơ, được rồi, cậu về đi!!!..

Nếu là hiện nay, đương nhiên tôi phải đòi có một biên bản đền bù hay một giấy biên nhận gì đó.. Nhưng lúc ấy tôi chỉ là thằng học sinh không hơn không kém, và là một anh lính binh nhì mà trước mặt mình là một đại úy Chính Trị viên..Thử hỏi tôi làm sao dám nghĩ tới việc số tiền mà thủ trưởng nhét vào túi sau đó sẽ thế nào?. Thấy thủ trưởng không còn căn vặn khoản nợ nữa là đã mừng lắm rồi..Thấy tôi cứ chần chừ, lưỡng lự, thủ trưởng Tình nhíu mày vẻ khó chịu. Ông nói với giọng hơi gắt, tôi bảo được rồi, cậu về đi, không nghe rõ à, cứ như tôi chỉ là người hàng xóm qua chơi làm mất thì giờ của ông vậy. Tôi lúng túng một lúc rồi mới dám hỏi: Báo cáo thủ trưởng..rứa..chừ em phải về đâu ạ? Ông Tình ngẩn mặt ra một lúc, rồi hình như ông đã sực nhớ ra vội xé cuốn sổ tay lấy tờ giấy viết nhì nhằng mấy dòng. Đại ý thế này: Chuyển đồng chí Nguyễn xuân Đức về lại đơn vị cũ ở tiểu đoàn 47.

Tôi đã trở về tiểu đoàn 47 trong tình cảnh như thế. Thấy mấy chữ của ông Tình, Tiểu đoàn trưởng lại lệnh tôi trở lại đại đội cũ là Đại đội 2. Mấy thủ trưởng ở đại đội cũ vẫn còn nguyên nên cũng không có ai đặt vấn đề gì..Tất cả các vị ấy và kể cả tôi nữa không ai để tâm tới chuyện này, toàn bộ hồ sơ lí lịch quân nhân của tôi trước đây đã được tiểu đoàn chuyển lên Khu đội, bây giờ nó đã bị vứt lại ở đâu đó trong những chiếc thùng rỗng ở khu đất xóm Tân Phúc Vĩnh Hiền. Tôi đã sống, chiến đấu ở tiểu đoàn 47 suốt một thời gian sau đó mà không hề có “hộ khẩu”. Tôi là anh chiến sĩ “ lậu”.

Tôi làm anh lính “lậu” như thế trong suốt thời gian chiến đấu ở chiến trường bắc Quảng Trị ( mà tôi sẽ kể rõ hơn ở phần sau). Dạo đó ở chiến trường không ai nghĩ tới chuyện phong quân hàm, ngay cả phụ cấp hàng tháng cũng không có. Cán bộ, chiến sĩ chỉ biết ăn cơm vắt, đôi khi được phát cho vài thứ như khăn mặt, lương khô..Vì vậy mà chẳng có ai tra xét hồ sơ lí lịch làm gì. Việc đề bạt cũng thế, chỉ có chức vụ, không có cấp bậc. Tôi đã mấy lần được làm tổ trưởng, tiểu đội trưởng...Những chức vụ đó rất tạm thời, nghĩa là khi nào đơn vị bị khuyết người chỉ huy thì cấp trên ngay lập tức chỉ định ai đó thay thế. Sau đó mấy hôm nếu có người khác phụ trách thì người được giao hôm trước lại trở về vị trí cũ hoặc điều qua một tổ khác..

Cho đến cuối năm 1966, khi đơn vị ra Vĩnh Linh thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị đánh địch đổ bộ đường không ra bắc giới tuyến, tôi được điều lên đội Tuyên truyền văn hóa của Bộ tư lệnh, gọi tắt là đội Tuyên Văn, làm nhiệm vụ sáng tác văn nghệ. ( Về sự kiện này tôi cũng sẽ kể kĩ hơn ở phần sau). Vào dịp tết Nguyên đán, anh em trong đội Tuyên Văn lên chúc tết Tư lệnh Hoàng Đượm. Bất ngờ tôi gặp cậu Lạng. Lạng trước đó ở cùng tiểu đội với tôi, nay được điều lên làm cần vụ cho Tư lệnh. Sau vài lời hàn huyên mừng rỡ, Lạng bất ngờ hỏi tôi : bữa nay anh cấp bậc gì? Tôi ngớ cả người. Quả thật từ ngày nhập ngũ đến nay, tôi chưa hề nghĩ tới chuyện cấp bậc..Mà có ai nhắc gì đến chuyện ấy đâu. Tôi nói, thì mình vẫn thế thôi..hình như là binh nhì..Lạng tròn mắt kêu lên, sao lại thế được, em nay đã là trung sĩ rồi đó..Tôi cũng ngạc nhiên nói, có ai phong hàm cho tụi mình đâu? Tưởng câu chuyện chỉ dừng lại đó, không ngờ ngay sáng hôm đó, Lạng đã thưa lại với Tư lệnh về chuyện của tôi. Ông Đượm liền cho gọi Trưởng ban Quân lực lên hỏi. Trưởng ban Quân lực vội vàng mở sổ sách ra truy tìm thì..ô hô, trong cuốn sổ cái của lực lượng Bộ tư lệnh không hề có tên anh lính binh nhì Nguyễn Xuân Đức. Tư lệnh Đượm lại gọi tôi lên hỏi xem tôi nhập ngũ ở đâu và quá trình công tác thế nào. Tôi đã báo cáo lại rõ ràng. Tư lệnh cho gọi Tham mưu trưởng Trần Tình lên hỏi, ông Tình xác nhận và cũng có thanh minh rằng, việc chuyển tôi trở lại đơn vị 47 do vội quá nên có sơ suất!!!..Ngay chiều hôm đó, ông Trưởng ban Quân lực bảo tôi viết gấp lại hồ sơ lí lịch. Thế cho nên, cái ngày sinh mồng 4 tháng 1 năm 1947 mà tôi nói ở phần đầu là do chính tôi “ sáng tác” kịp thời trong hoàn cành ấy.

Mồng 3 tháng 2, ngày sinh nhật Đảng năm ấy, tức chỉ sau cuộc thăm tết Tư lệnh Hoàng Đượm chưa tới một tuần, tôi nhận được quyết định phong quân hàm Hạ sĩ, ( tức bỏ qua Binh nhất). Mồng 2 tháng 9, lại nhận quân hàm Trung sĩ. Rồi đến 22 tháng 12 cũng của năm đó, tôi đã được phong quân hàm Thượng sĩ.


Một năm ba lần thăng cấp. Thử hỏi có vị Tư lệnh nào như thủ trưởng Hoàng Đượm của tôi không? Và có người bạn chiến đấu nào lại nhọc lòng quan tâm đến đồng đội như chiến hữu Lạng của tôi không? Cho nên sau này, dù gặp không ít những bất công ngang trái, nhưng tôi không bao giờ bất mãn. Tôi luôn tin cuộc đời vẫn còn rất nhiều người sống chí tình chí nghĩa. Cuộc đời vẫn có hậu.
Khoảng tháng 11 năm 1965, tiểu đoàn 47 làm lễ xuất kích qua bờ nam thực hiện mục tiêu “kéo địch ra đường 9”. Lễ xuất quân diễn ra âm thầm trên một trảng đất pha cát, giữa một vùng phi lao lơ thơ, dưới màn mưa mờ mịt và những làn gió lạnh mùa đông. Những cán bộ chỉ huy tiểu đoàn và thủ trưởng Bộ tư lệnh thay nhau nói những nhiệm vụ, những yêu cầu, những mệnh lệnh rất hùng hồn, nhưng đến nay tôi chẳng còn nhớ gì. Tôi nhớ nhất chỉ có mấy câu này của vị Chính trị viên tiểu đoàn. Ông ấy tên là Tính, có kiểu nói giật cục. Ông ấy nhắc đi nhắc lại một câu như thần chú: Bám sâu, bám lâu, bám chắc; nhổ nhanh, nhổ mạnh, nhổ đều! Có nghĩa là tất cả đơn vị phải xác định quyết tâm vào bám sâu, bám chắc địa bàn, bám lâu dài không được có tư tưởng tạm bợ, đồng thời cũng sẵn sàng cơ động có thể “ nhổ” bất kì lúc nào có lệnh, nhổ nhanh, bất ngờ và cơ động tới mọi mặt trận.

Buổi lễ xuất quân năm đó đã để lại trong kí ức tôi một ấn tượng rất sâu đậm. Vì thế sau này khi viết tiểu thuyết Cửa gió, tôi đã bắt đầu cuộc hành trình của tiểu đoàn 47 bằng buổi lễ xuất quân ấy.

Tôi sẽ không kể thêm nhiều về giai đoạn tiểu đoàn 47 hành quân vào đất Cam Lộ để “ cắm sâu, cắm lâu, cắm chắc” nữa, bởi như đã nói, cuốn tiểu thuyết Cửa gió đã kể về giai đoạn ấy của tiểu đoàn không khác gì một tự truyện hay truyện kí, chỉ có tên nhân vật là hư cấu thôi. Ngay cả những địa danh như khu căn cứ H1, hay Cù Đinh, Ba ze, Khe Me, Bến lội sông Hiếu, hay những tên làng như Quật Xá, Kim Đâu, Kim Bình, Ba Thung v..v. mà trong tiểu thuyết Cửa gió, hay ngay cả trong tiểu thuyết mới sau này là Bến đò xưa lặng lẽ đã nói đến đều là những địa danh thật, gắn với những trận đánh có thật của tiểu đoàn mà tôi cùng trải qua..Dĩ nhiên, cũng còn rất nhiều kỉ niệm khác chưa được thể hiện trong Cửa gió…thì cũng đã có lúc tôi nhắc lại trong vài ba bài bút kí khác. Ví dụ như bài viết : Mảnh đất Cam Lộ với những trang viết của tôi đã đăng ở nhiều Tạp chí. Tôi xin trích lại đây mấy đoạn trong bút kí ấy vì nó liên quan đến cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi, là cuốn Bến đò xưa lặng lẽ..



Tiểu đoàn địa phương chúng tôi chính là đơn vị đầu tiên vào " chọc tức" bọn Mỹ Nguỵ để chúng bung ra, khoảng nửa năm 1966 thì các binh đoàn chủ lực mới tràn vào và mặt trận bắc Quảng Trị mới thật sự bùng nổ. Đây là những năm tháng bi hùng nhất của chiến trường Quảng Trị. Với nhiệm vụ đó, thời gian đầu đơn vị được chia nhỏ thành nhiều tổ phối hợp với cán bộ địa phương thọc sâu xuống từng ấp, thôn gây dựng cơ sở, trừng trị ác ôn, phát động nhân dân khởi nghĩa lập chính quyền cách mạng. Quật Xá chính là ấp mà tôi vào ra nhiều nhất. Cũng chính những ngày tháng đó, tôi đã được quen biết và cùng hoạt động với nhiều cán bộ cốt cán của Huyện uỷ Cam lộ, có người thì vài ba tháng, có người chỉ một hai lần cùng đi vào cơ sở, nhưng tất cả đều đã để lại cho tôi những ấn tượng sâu đậm đến hàng chục năm sau cũng không thể lẫn nhoà. Đó là anh Đen, anh Kha, chị Sáng ..và đặc biệt nhất là anh Biên, anh Kỳ.. Anh Biên- một con người thô tháp, xương xẩu, hai vành môi to, đôi mắt cũng to và rất sáng. Nhìn anh có vẻ hơi "dữ tướng", nhưng thực ra lại rất sởi lởi. Tôi được gần anh chỉ trong khoảng một tháng, cùng vào ra ấp Quật Xá khoảng năm , bảy lần gì đó, nhưng ấn tượng vầ con người này đối với tôi là rất mãnh liệt.Hồi đó Biên nổi tiếng nhất vùng này, bọn địch ở Cam Lộ đã treo giải thưởng hàng trăm cây vàng cho ai hạ sát được anh. Nhìn cách thức anh vào ấp, truy bắt bọn ác ôn hay lính nghĩa quân, cách anh tiếp xúc với cơ sở, đối với tôi lúc đó, Biên như là một nhân vật của Lương Sơn Bạc trong truyện Thủy Hử. Thế mà bất ngờ sau đó, tôi nghe tin anh bị bắt và bàng hoàng hơn là..Biên đã chiêu hồi. Lúc đó người thay Biên để dắt dẫn chúng tôi vào ấp là anh Kỳ. Suốt thời gian đó, anh Kỳ không hề kể thêm cho tôi biết gì về anh Biên cả. Cuối năm 1967, lúc đó tôi đã ra bắc và tham gia đội Tuyên truyền văn hóa Vĩnh Linh đi ra biểu diễn Đại hội mừng công Quân Khu 4 tại Tân Kỳ, bất ngờ gặp đoàn cán bộ huyện Cam Lộ, trong đó có anh Đen. Tôi tranh thủ hỏi tin tức về anh Biên. Nhưng có vẻ các anh ấy cũng không hào hứng gì, chỉ nói sơ sơ là chính các anh cũng không hiểu được chuyện gì đã xẩy ra, rằng Biên đã được thả về ở tại làng, lại còn cưới thêm một người vợ khác..( ngoài người vợ đang ở Vĩnh Linh )..Thú thực, ngay cả lúc ấy, tôi vẫn cứ thấy ngờ ngợ về câu chuyện chiêu hồi của Biên, tuy nhiên tôi chẳng có căn cứ gì cả. Mười lăm năm sau, tôi có gặp lại một người trước đây cực kì gần gũi với anh Biên nay đang giữ một trọng trách quan trọng của thị xã, tôi liền vồ vập hỏi anh Biên còn sống không, thực chất câu chuyện chiêu hồi dạo trước thế nào..Điều kỳ lạ là nhân vật đó đã lại lãng tránh câu hỏi của tôi, thậm chí còn tỏ ra ngơ ngác như không thể nhớ nổi Biên là ai !..Nếu ai đó nói không nhớ anh Biên thì có thể có nhiều cách giải thích, nhưng cái người mà tôi đang kể làm bộ không nhớ Biên là ai..thì thật sự không thể lí giải nổi. Vị ấy không những là cán bộ lớp đàn em được kế nhiệm công việc của người anh đi trước, mà theo nhiều người ở huyện ủy lúc đó kể lại, chính anh Biên là người đã bí mật vào ấp đón lớp thanh niên con cái của các cán bộ cách mạng huyện ra căn cứ rồi gửi ra miền Bắc học tập để tạo nguồn..Trong số đó có cái vị ấy. Một người có công với mình như thế làm sao lại có thể không nhớ ra? Hay là..có chuyện gì đây? Thêm 20 năm nữa, khi tôi đã là một cán bộ của tỉnh Quảng Trị, trong một lần vui vẻ "ôn cố tri tân" tôi lại gợi chuyện với cái vị cán bộ đó về anh Biên, bày tỏ mong muốn tìm lại được anh, thì..thật kỳ là, vị ta lại thêm lần nữa đánh trống lãng, làm bộ cố nhớ mà không nhớ ra người có tên là Biên?. Mối nghi ngờ trong tôi càng tăng. Tôi càng quyết tâm hơn trong việc tìm ra địa chỉ con người này. Khổ một nổi là tôi không biết tìm manh mối từ đâu. Cuối cùng, có lẽ là ý trời, một hôm có người bạn tên là Quy đến quán cà phê Trúc sơn trang để uống. Quy trước đây là một cán bộ từ Đoàn 31 tăng cường cho Cam Lộ. Hết chiến tranh, Quy làm công tác văn hóa. Khi tôi làm giám đốc sở Văn hóa thì Quy là trưởng phòng Văn hóa thị xã Đông Hà nhưng sau đó được điều động qua Ban Tuyên giáo tỉnh ủy làm Trưởng phòng văn nghệ. Trong câu chuyện “ôn cố tri tân” về những năm tháng hoạt động ở Cam Lộ bên bàn cà phê, tôi vô tình lại hỏi về Biên. Không ngờ Quy là người hiểu rất rõ. Anh đã kể cho tôi nghe nỗi oan ức của một con người mà anh cũng rất ngưỡng mộ. Tôi mừng quá vội hỏi địa chỉ. Quy nói là biết và sẵn sàng dẫn tôi đi. Thế là ngay sáng hôm sau chúng tôi lập tức lên đường. Và chỉ một buổi sáng hàn huyên tâm sự, tất cả sự nghi ngại bốn chục năm nay đã được sáng tỏ. Những chi tiết về sau tôi đã viết trong Bến đò xưa lặng lẽ là, khi Đọt ( nhân vật của tiểu thuyết) trốn được ra căn cứ, tìm được ban Dân vận, thì cái anh Trưởng ban mới bằng cách nào đó có trong tay mảnh giấy được gọi là thư tay của Bí thư Huyện ủy, yêu cầu đưa ngay anh Đọt ra miền Bắc để “ điều dưỡng”. Thế rồi người ta chuyển ngay Đọt ra Bắc theo đường giao liên để từ đó, nhân vật Đọt bị cầm tù theo cách giám sát, điều tra chứng cứ phản bội..Đó là chi tiết thật của Biên kể. Tôi hỏi anh Biên: anh có còn giữ được lá thư ấy không? Biên trợn mắt nói, làm sao mà giữ được, mà giữ làm gì? Lúc đó tôi vừa thoát được cảnh cá chậu chim lồng, gặp được anh em là mừng hết sức rồi..Lại được huyện ủy quan tâm cho ra bắc điều dưỡng nữa là sung sướng đến nghẹn ngào rồi..tôi đâu có nghi ngờ gì lá thư của anh Nghĩa mà giữ lại..Ông Nghĩa là Bí thư huyện ủy Cam Lộ thời kì đó, nay đang nghỉ hưu ở Đông Hà sát cạnh nhà tôi. Tôi đã gặp ông trực tiếp hỏi chuyện này. Ông Nghĩa với giọng rất buồn nói, chuyện về đồng chí Biên tôi đã biết. Hồi đó, tôi không được ai báo cáo về việc anh Biên đã trốn ra được, cho nên không hề có chuyện viết thư tay..Sau này, mấy lần tôi có bảo Biên viết kiến nghị, tôi còn sống đây, tôi sẽ xác nhận cho..Nhưng tính khí cậu ta rất cố chấp, lại cứng đầu lắm, nói đến chuyện cũ là lồng lên, rồi trỏ c..Tôi cũng chẳng biết làm sao được nữa..Vì thế mà bữa nay người ta chỉ có thể giải quyết chế độ hưu trí cho anh ấy, còn phục hổi đảng tịch thì chịu…Sau đó tôi đã quay trở lại Quật Xá , tìm gặp vài cơ sở cũ mà tôi từng quen biết khi còn hoạt động để xác nhận những điều anh Biên kể. Bây giờ tất cả đã già, chẳng ai phải lo sợ chuyện gì nữa, vì thế họ đã xác nhận sự thật. Tôi bàng hoàng trước những chuyện tày đình về một số phận bị vùi lấp dưới bao nhiêu tầng bụi bậm. Một số phận mà sự oan ức cứ như là định mệnh của đời anh. Đấy chính là nhân vật Đọt trong tiểu thuyết Bến đò xưa lặng lẽ. Nếu bạn đã đọc cuốn tiểu thuyết đó thì xin hãy tin thế này, phần đầu nói về nhân vật Đọt từ tuổi thơ chăn bò đến giai đoạn chống Pháp, rồi cùng trốn ra Hói Cụ với nhân vật Li..là tôi hư cấu. Còn từ đoạn theo Khảm trở lại chiến trường Cam Lộ, đảm nhận chức Trưởng ban Dân vận của Khu ủy..rồi bị bắt, bị địch bày thủ đoạn nham hiểm để li gián nội bộ ta, rồi Đoạt được thả về mà thực chất là giam lỏng giữa làng Quật Xá, giả vờ cưới Lương..Rồi trốn ra căn cứ trong ngày lễ mùng 5 tháng 5..không ngờ bị “ bên ta” cài bẫy để đưa ra Vĩnh Linh, bị giam lỏng để điều tra với danh nghĩa “thu dung” v..v..Ngay cả sự việc sau này trở về chăn bò cho nông trường cũng bị oan..Tất tất đều là sự thật, sự thật đến chi tiết của một con người có tên là Biên..Một “hảo hán” mà tôi rất ngưỡng mộ…

Khi tiểu thuyết Bến đò xưa lặng lẽ được trao giải A cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam, Hữu Thỉnh- Chủ tịch Hội nhân có công việc vào Quảng Trị đã bảo tôi dẫn đến thăm nguyên mẫu của nhân vật Đọt. Tôi đã dẫn Hữu Thỉnh lên Tân Lâm gặp ông Biên..Tiếc rằng vào thời điểm đó, anh Biên đã có phần lẩm cẩm..Nghe tôi giới thiệu về nhà thơ Hữu Thỉnh, thế là ông ấy hứng lên mang cuốn sổ tay ra đọc thơ..Rất nhiều thơ..Nhưng những loại thơ đó đương nhiên là thứ văn vần rất ngô nghê nên không cần nói đến nữa.

Nhân đây cũng nói thêm chuyện này. Sau khi tiểu thuyết Bến đò xưa lặng lẽ được giải, nhân có lớp bồi dưỡng những cây bút lí luận phê bình văn học trẻ tổ chức ở Nhà sáng tác Quảng Bá, Hội Nhà văn có đưa cuốn  sách của tôi ra Hội thảo. Tôi đã đọc được hầu hết các tham luận của mấy “nhà” phê bình này. Nhiều bài rất được. Nhưng “ấn tượng” nhất có lẽ là bài của một vị ( mà thôi tôi cũng không cần nêu tên nữa), với tiêu đề là Bến đò xưa lặng lẽ- nồi cơm chưa chín kĩ !! Trong đó, “nhà phê bình” ấy nói, đại ý: có nhân vật được tác giả cố tình xây dựng rất kĩ, nhưng cuối cùng ông ta chẳng làm nên được công trạng gì. Đấy là Khảm. Ngược lại, có nhân vật tác giả bỏ rơi, hầu như không hề “nuôi nấng” gì thì đã tự lớn và trở nên nhân vật rất độc đáo. Đấy là Đọt. Tôi không hiểu người ta đã dạy cho anh ta những gì trong cái lớp được gọi là lí luận phê bình ấy..và cả trong những lớp học khác nữa, để “nhà lí luận” trẻ lại có những ý nghĩ ngây ngô như thế về văn học. Nhân vật Khảm ( chính là nhân vật giữ ngôi kể chuyện tâm thế người âm) được khắc họa với một dụng ý rất rõ là, có những con người luôn tôn thờ lí tưởng và nguyên tắc lên trên tất thảy mọi ứng xử trong cuộc sống..Rốt cuộc anh ta- vì những trói buộc của những nguyên tắc đó- đã không thể làm được một điều gì để cữu rỗi cuộc đời này, thậm chí không dám nhận mặt đứa con đẻ của mình hay không cứu nổi người chiến hữu thân thiết nhất đang bị hàm oan ( cả khi anh ta sống với chức vụ cao và kể cả khi anh ta thành người âm đến dự phiên tòa xét xử người bạn ấy). Bối cảnh chính của tiểu thuyết là một phiên tòa “kinh thiên động địa” mà ở đó, người đời đang phán xét một tội ác thuộc về lương tâm. Và song hành với nó là một phiên tòa khác, một “phiên tòa lương tâm” của chính nhân vật Khảm tự xét tội của mình cho dù anh ta được người dương tôn vinh là liệt sĩ. Như vậy có nghĩa là, cái mà “nhà phê bình” gọi là nhân vật không làm được gì có phải là chủ đích của tác giả không? Cái “ không làm được gì”  chính là đã làm được điều mà tác giả muốn gửi gắm đấy. Còn việc nói, có nhân vật tác giả “ không hề làm gì” “ đã tự lớn” như Đọt..thì quả thật buồn cười hết chỗ nói. Làm sao lại có nhân vật lớn lên trong tiểu thuyết ( thể loại hư cấu ) mà lại không do tác giả tạo ra, tác giả “nuôi nấng” được chứ? Vậy ai đã viết nó ra thế? Nhân vật nào trong tác phẩm thuộc thể loại hư cấu mà không do tác giả tạo ra? Đến đây thì thấy nền đào tạo phê bình nước nhà “ hết thuốc chữa” rồi.
Trở lại chuyện những năm tháng " bén duyên" với Cam Lộ, tôi tuyệt nhiên không có chút ý thức gì về chuyện sau này sẽ thành người sáng tác. Tôi không xét đoán, nhận định hay suy ngẫm gì hết. Như một đưa trẻ lần đầu tiên ra khỏi xóm nhỏ làng mình, lạc vào một thế giới vô cùng xa lạ, sống những ngày quá đặc biệt nên đã hằn lại trong trí nhớ của tôi tất cả những gì mà tôi chạm mặt. Tất cả đều quá sức tưởng tượng của tôi. Ví như cái làng Kim Đâu, Kim Bình bên này sông Hiếu, một mảnh làng rất đẹp nhưng không có dân. Lần đầu đi qua là ban đêm, chúng tôi không thể nhìn bao quát được làng, chỉ được cán bộ địa phương cho biết, dân đã bị lùa qua bên kia sông ( phía Quật Xá) bỏ lại nhà cửa làng mạc, trống hoang.Các bạn có thể hình dung một mảnh làng nào đó bỏ hoang, không người nhưng cũng không còn nhà cửa hoặc là đã xơ xác tàn lụi..Có lẽ như thế lại là bình thường. Đằng này, làng vẫn rất sầm uất, nhà cửa i nguyên, cây vườn tươi tốt, nhưng lại im bặt tiếng người..Tôi cứ bần thần mãi rồi chợt nhớ tới câu thơ Đường mà Nguyễn Du từng vận dụng trong Kiều : Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông..
                
Chúng tôi hành quân theo một con đường mòn nhỏ đi tắt qua một mảnh vườn cam. Cây cam thấp, quả chĩu cành buông xuống đập cả vào chân chúng tôi. Kỉ luật dân vận là không được đụng vào cái kim sợi chỉ của dân, nói cụ thể là dù cam vướng vào chân nhưng tuyệt đối không được hái. Khi đi vào ấp thì không có vấn đề gì xẩy ra, nhưng đến lúc quay về cứ, đi qua khỏi vườn một đoạn bỗng có lệnh dừng lại. Chúng tôi chưa hiểu chuyện gì xẩy ra thì thấy trung đội trưởng đi ngược hàng quân ghé mũi hít hít vào từng mồm chiến sĩ.( Bạn đã từng bị ai đó hít hít vào mồm lần nào chưa ? Tất nhiên là trừ chuyện yêu đương ) Thì ra ai đó đã hái trộm một quả và bóc ăn nên mùi thơm bốc ra và bị phát hiện...Những chuyện như thế đối với đứa học trò như tôi là không sao tưởng tượng nổi.

    Muốn đột nhập vào ấp Quật Xá phải vượt qua sông Hiếu ở một bến lội. Đoạn sông chỗ này nông, người cao trung bình như tôi khi lội chỉ cần xắn ống quần lên cao hết cỡ là nước không thể chạm tới. Tuy nhiên đáy sông lại toàn là đá cuội, rất trơn, rất dễ trượt chân. Nếu để trượt chân, nghiêng người một cái thì ống quần sẽ nhúng nước. Và đó là một tai hoạ. Ngày đó trong quân trang chúng tôi mặc, có loại áo quần bằng vải Liên Xô viện trợ, nó cực dày. Khi không bị ướt thì vẫn mềm mại bình thường, nhưng nhúng vào nước nó cứng như mo cau, có thể dựng đứng cả chiếc quần tựa vào gốc cây được. Đang hành quân mà gặp mưa, hoặc lội sông bị ướt, vải cứng lại cà xát vào háng hoặc đùi gây loét da ngay. Nhưng tai hại hơn là khi đi vào trong ấp, mặc dù mệnh lệnh là tuyệt đối không được phát ra tiếng động, nhưng hai ống quần vẫn cà vào nhau loạc xoạc. Đêm càng vắng, người càng nín thở thì tiếng loạc xoạc càng to. Những lúc như thể chỉ còn biết trào nước mắt. Bờ bên kia bến lội có một gốc duối tàu ( có người gọi là dưới tàu), thân già sù sì, tán lá rậm rịt. Đêm nào vượt sông qua đến đó, chúng tôi cũng nép mình vào gốc duối quan sát vài ba phút, thấy không có động tĩnh gì thì mới đột nhập vào ấp. Không biết đã bao nhiêu đêm như thế, gốc duối già nơi bến lội ấy đã trở thành cái mốc cắm sâu vào ký ức tôi, theo tôi đi cùng nam cuối bắc. Ngay ngày đầu mới giải phóng Quảng Trị- năm 1973- khi được trở lại Đông Hà, tôi đã mượn một chiếc xe đạp gò lưng đạp ngược đường Chín hơn 15 cây số tìm về Quật Xá, chạy vội ra bến lội để được nhìn lại gốc duối ngày nào. May quá, nó vẫn âm thầm đứng đó như cố tình chờ tôi. Và cho đến tận hôm nay, rất nhiều lần tôi trở lại, cây duối vẫn còn, tuy đã quá già nhưng cành lá hẵng còn sum suê. Tôi mong đừng ai chặt phá đi, cho dù nó cũng chẳng có ích lợi gì lắm cho sự phát triển kinh tế hiện nay. Thì nó cũng như tôi thôi, không còn có ích gì nhiều nữa, nhưng là chứng nhân của một thờiđấy.
             Ký ức về những mảnh làng ở Cam lộ đối với tôi hầu hết là không gian đêm. ( Mặc dầu tôi cũng đã mấy lần đột nhập vào Quật Xá ban ngày dưới sự chỉ huy của anh Biên để bắt ác ôn, tuy nhiên những lần như thế căng thẳng quá, vào thì lao như tên bắn, rồi lại quáng quàng chạy ra, thành thử chẳng có chút cảm xúc nào. Còn có một lần tôi được giao nhiệm vụ cùng anh Kỳ bí mật nằm trên đồi An Thái cả ngày để theo giõi tình hình chuyển quân của địch phía bên kia đường Chín, thì xa quá, cũng chẳng nhìn rõ làng mạc ở bên kia sông. Chỉ đến đêm mới đột nhập vào ấp thì thật tuyệt vời, nhưng chuyện đó tý nữa mới kể.                     
                Cả đại đội âm thầm hành quân đi qua một trãng rộng nằm lọt thõm giữa những bìa rừng. Tôi không biết đây là đâu, chỉ biết nơi này là một trọng điểm của đạn cối địch từ cao điểm Cồn Tiên rót xuống. Đại đội vừa đi, vừa chạy gần 4 giờ đồng hồ, chân mỏi dừ, mắt ríu lại vì buồn ngủ. Bỗng người đi trước khẽ quay lại truyền lệnh : Ngồi nghỉ 10 phút ! Chỉ chờ có thế, tôi quay nhanh ra người phía sau truyền nối mệnh lệnh rồi ngồi phịch xuống cỏ. Cơn buồn ngủ ập xuống liền. Có người không kịp ngồi cho thẳng người đã cất tiếng ngáy như kéo gỗ. Hành quân đêm ở chiến trường là thế. Việc vừa đi vừa ngủ không phải chuyện hiếm. Bất ngờ từ cuối hàng quân, đại đội phó lụi cụi chạy lên, dáng đầy hốt hoảng. Ông cứ cúi xuống xô vào vai từng người, răng nghiến lại : Ai cho ngồi nghỉ ở đây há ? Lính vừa ngái ngủ vừa trả lời : Báo cáo đại phó, phía trước truyền xuống thế. - Trước nào ? Ông lại xô tiếp vào vài chiến sĩ ngồi trên- Điên hết rồi, đây là cái túi pháo, muốn chết hay sao ? Ai truyền lênh ? - Dạ..phía trên kia ạ. Chúng tôi chỉ biết vậy nên cũng chỉ trả lời vậy. Trả lời xong là lại ngáy liền. Người đại đội phố vẫn lồng lộn chạy tiếp lên phía trên hàng quân, xô vào từng chiến sĩ và hỏi đi hỏi lại mỗi câu ấy. Đương nhiên chiến sĩ cũng chỉ trả lời mỗi câu ấy. Nhưng đến cậu Xinh, một chiến sĩ nuôi quân đang ngồi gục xuống giữa hai chồng soong nồi lổn nhổn thì ông đại đội phó lại nhận được câu trả lời khác - Dạ..họ ngồi cả đám đó, thủ trưởng không thấy à ?   Đại đội phó cố dướn mắt nhìn vào bóng tối trước mặt :- Đâu ? Ai ngồi đâu ?Xinh quờ tay ra phía trước :- Đó..đó..đầy bãi ra đó..Đại đội phó lò dò tiến lên phía trước..Rồi bất ngờ ông kêu trời : Cha mẹ ơi, Xinh ơi là Xinh, mi mở to mắt ra mà nhìn này..Người ngồi đây hả ? Trời ơi, chừ thì đứt mất đội hình rồi, biết hành quân đi hướng nào ! Rồi ông quát to : Dậy, chạy nhanh, chết cả nút bây giờ ! Tất cả chúng tôi bật dậy, quáng quàng chạy. Thì ra, trước mặt không hề có ai ngồi cả mà chỉ đầy bãi những cây bai bái ( một loại cây dại lúp xúp thấp hơn đầu gối người ). Cậu Xinh vì quá mệt và buồn ngủ ríu mắt lại nên nhìn thấy thế tưởng bộ đội đã ngồi nghỉ, hắn tự động phát ra mệnh lênh. Cú đó may mà đơn vị không ai bị thương vong vì pháo, nếu không, cậu anh nuôi tội nghiệp ấy đã lãnh đủ.
               Trở lại chuyện cái ngày tôi và anh Kỳ được giao nhiệm vụ nằm trên đồi An Thái theo giõi tình hình chuyển quân của địch bên đường Chín. Suốt cả một ngày nằm trên đồi, ăn thì đã có cơm vắt, khát thì có bi đông nước mang theo. Nhưng riêng tôi có một nhu cầu rất đau khổ là thèm thuốc. Tôi nghiện thuốc lá từ ngày còn nhỏ ở nhà. Vào chiến trường, thuốc hút của bọn tôi chủ yếu là thuốc quấn cả lá do xin được từ các đoàn dân công từ ngoài Vĩnh Linh vào. Thỉnh thoảng vào ấp, bà con cơ sở có cho vài gói về làm quà cho cả đơn vị. Chiều đó, tôi thèm thuốc quá, người cứ bứt rứt không yên. Anh Kỳ nhìn tôi đoán được cái khổ sở đó. Khi mặt trời sắp khuất núi, chúng tôi chuẩn bị về cứ, thì bất ngờ Kỳ nói : Anh thèm thuốc lắm phải không ? Tôi như sáng mắt ra, hỏi : có cách gì không ? Có- anh Kỳ gật đầu nhanh- Chừ anh theo tôi về thăm mệ ( bà) tôi, tôi sẽ xin thuốc cho. Tôi hơi ngớ ra : Mệ ở đâu ?Anh chỉ tay về phía ấp Ba Thung : Chỗ đó, ở thôn giữa..gia đình tôi thuộc diện đặc biệt chú ý nên chúng nó bắt ở thôn giữa. Đã lâu rồi tôi chưa về thăm mệ, đêm nay ta vào đi. Thú thực lúc ấy tôi cũng hơi ngại, nhưng phần thì quá thèm thuốc, phần cũng thấy thương anh Kỳ nên gật đầu luôn. Thế là chúng tôi quyết định vào ấp. Đấy là một đêm tuyệt vời. Trăng mờ đục, nhưng đất làng pha cát bạc nên khung cảnh làng hiện lên rất rõ. Gió nam lại thổi rất to. Tiếng mo cau cà vào thân cau loạc xoạc, tiếng kẽo kẹt phát ra từ những khóm tre, tiếng gió hú qua các mái tôn nghe ro ro như sáo thổi..Mới đầu hôm mà ấp vắng ngát, im lìm. Anh Kỳ dẫn tôi chui qua hàng rào để vào làng bằng lối đi từ phía sau. Nhà Mệ của anh ở gần chính giữa xóm. Anh bảo tôi gác ở ngoài ngõ, anh chui vào nhà. Tôi ép mình ngồi câm lặng, đảo mắt thư thả nhìn bao quát khắp làng. Chưa bao giờ tôi thấy làng quê Cam Lộ lại đẹp như thế, cái đẹp mơ màng trong tĩnh mạc. Vào giờ đó, hầu như tôi quên mất đây là ấp chiến lược, bốn phía có thể là địch và súng có thể nổ xé đêm bất cứ lúc nào. Ở trong nhà vẫn im lìm không hề phát ra tiếng động, tuy nhiên tôi vẫn có thể hình dung ra bà mệ đang sung sướng thế nào khi được ôm lấy cháu. Gần một giờ sau, anh Kỳ ra, vai khoác chiếc gùi căng. Tôi biết chắc trong đó thế nào cũng có thuốc lá. Anh Ký bảo : hay ta ra bằng cổng chính đi ! Tôi vội nói, không, cứ ra đường cũ, đừng mạo hiểm. Anh gật đầu. Chúng tôi lại theo đường vào để trở ra. Hôm sau mới biết,đó là một quyết định sáng suốt. Về đến cứ, trước khi chia tay, anh Kỳ cho tôi 5 gói Ro-bi. Tôi định sáng mai sẽ chia cho anh em trong tiểu đội. Câu chuyện tôi lẻn vào ấp, cứ tưởng chỉ hai chúng tôi biết. Không ngờ sau hai hôm, bất ngờ tôi bị Tiểu đoàn trưởng gọi lên. Ông quát phủ đầu : Đêm hôm trước cậu vào ấp làm gì ? Tôi ngớ ra chưa biết thanh minh thế nào thì ông bồi tiếp cho một trận nhừ tử, nào là nguyên tắc hoạt động, cơ sở thuộc tuyến nào phải do tuyến đó tiếp cận, nào là muốn vào ấp phải được lệnh chỉ huy, nào là mình là lính quân đội chỉ phối thuộc với địa phương chứ không phải hoàn toàn theo sự chỉ huy của họ .v..v.. Tôi chỉ còn biết cúi đầu vâng dạ. Sau đó tìm gặp anh Kỳ, hỏi vì sao chỉ huy tôi biết. Anh mới kể, thì ra, khi chúng tôi vào ấp, bọn lính Nghĩa quân đã phát hiện. Nhưng chúng nó nhát gan, không dám hành động, bèn kéo nhau ra cổng mai phục, đợi chúng tôi trở ra sẽ nổ súng. Nhưng chúng tôi đã không ra đường cổng chính. Sáng hôm sau, chúng nó vào bắt mệ lên nhà Hội đồng, dọa nạt, kể vanh vách rằng đêm qua thằng Kỳ cùng một tên giải phóng nữa vào, thằng Kỳ vào trong nhà, tên giải phóng ngồi canh ngoài cổng v..v..Đêm sau nữa, tổ công tác của huyện vào bắt liên lạc với mệ, mệ đã kể lại cho họ nghe. Thế là tổ đó về thắc mắc với huyện ủy là anh Kỳ đã tùy tiện đi vào bắt liên lạc trái tuyến. Anh Kỳ cũng bị phê bình như tôi...

Sau gần 40 năm, khi cùng làm việc với nhau ở tỉnh, có lần tôi đã nhắc lại kỉ niệm này với anh Kỳ. Nhưng có vẻ anh không nhớ. Anh Kỳ là một nhân vật nổi tiếng của vùng đất ấy suốt cả thời kì đánh Mỹ, chắc chắn trong anh ngổn ngang bao nhiêu là kí ức hào hùng.Con người ta, ký ức cũng như tiền của, tư trang vật dụng, hoặc là ảnh chụp lưu niệm, nếu nhiều quá đôi khi nó nhòa đi, không sao nhớ hết. Nhưng với riêng tôi, những kí ức như thế là của hiếm, cũng như những mảnh làng Cam Lộ, dù chỉ gắn bó với tôi mấy tháng thôi, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm thức như những mảnh trăng, cứ vằng vặc suốt cuộc đời và trong từng trang viết…
Có thể chia nhiệm vụ tham gia chiến đấu của bản thân tôi với tiều đoàn 47 ở chiến trường bắc Quảng Trị ra thành hai giai đoạn. Giai đoạn một là từ cuối năm 1965, cùng tiểu đoàn xuất kích vào địa bàn Cam Lộ, sau đó xích dần xuống Gio Linh với trận đánh lịch sử vào căn cứ Dốc Miếu – được gọi là “con mắt thần của tuyến hàng rào điện tử Măc-na-ma-ra” vào rạng sáng 19 tháng 5 năm 1965. Tiếp đến là cuộc “chạy dài” vì bị xe tăng địch uy hiếp..chạy tuốt ra bắc sông Bến Hải, núp dưới những bờ bụi của xã Vĩnh Sơn. Sau đó, nghe nói Ban chỉ huy tiểu đoàn bị khiển trách hay cảnh cáo gì đó, rồi cả đơn vị được lệnh quay trở lại địa bàn Long Hảo Sơn, bắc Gio Linh, tiếp tục “ cắm sâu, cắm lâu, cắm chắc”. Đến khoảng tháng 7 hay tháng 8 ( tôi không còn nhớ chính xác), hình như Bộ Tổng tư lệnh có nhận định là Mỹ đang âm mưu đánh ra Miền Bắc, nghe nói là Đại tướng Võ Nguyên Giáp có chuyến đi đặc biệt vào Vĩnh Linh chỉ rõ những vị trí có khả năng Mỹ sẽ đổ bộ..(Lúc đó loại lính tráng như tôi chỉ nghe xầm xì vậy thôi chứ làm sao biết chính xác được). Vì vậy đơn vị nhận lệnh trở ra Vĩnh Linh, chuẩn bị trận địa sẵn sàng đón đánh quân đổ bộ đường không của Mỹ.
                 Giai đoạn hai là từ tết Mậu Thân ( 1968), tiểu đoàn được lệnh vượt sông trở lại mặt trận bắc Quảng Trị nhưng xuống hẳn khu đông với nhiệm vụ đánh địch ở Cửa Việt để chặn đứng con đường tiếp viện của Mỹ lên Khe Sanh tạo điều kiện để mặt trận phía tây đánh lớn. Tôi lúc đó không còn là chiến sĩ của tiểu đoàn mà là cán bộ sáng tác của đội Tuyên Văn Bộ tư lệnh, được cử về bám sát đơn vị “ tìm hiểu thực tế” để sáng tác. Chuyến trở về này tôi cùng đi với hai nhà báo chuyên nghiệp của báo Quân đội nhân dân, là Hồ Thừa ( Nguyễn Đình Dư) và Hồng Nhu. Cả hai đều đã hy sinh trong chiến dịch đó. Như vậy là, giữa hai giai đoạn cùng tiểu đoàn 47 vượt sông vào bờ nam chiến đấu thì có một thời gian tôi cùng tiểu đoàn được trở ra chuẩn bị tác chiến trên đất Vĩnh Linh. Đấy là giai đoạn bản lề của đơn vị giữa hai lần vượt sông Bến Hải, nhưng với riêng tôi, thời gian trở ra Vĩnh Linh chuẩn bị trận địa chống đổ bộ đường không cũng là giai đoạn bản lề..chuẩn bị cho tôi bắt đầu bước vào thời kì mới của cuộc đời, thời kì cầm bút viết văn chuyên nghiệp mà tôi sẽ nói kĩ ở phần sau.


Quay trở lại những kỉ niệm về giai đoạn một. Như phần trên đã nói, cả quá trình chiến đấu của tiểu đoàn 47 trong giai đoạn này hầu như tôi đã kể trong tiểu thuyết Cửa gió nên nay không kể nhiều nữa. Chỉ xin nhắc lại một chút về sự kiện “chạy dài”.  Chạy dài là gì? Trong chiến đấu, nếu do thất thế hay hoang mang lo sợ mà tự động rút lui một đoạn ngắn rồi tự trấn tĩnh, quay trở lại thì chỉ là “chạy ngắn”. Còn nếu mất bản lĩnh, hoảng sợ đến mức rút chạy..chạy không ngoái đầu lại, không biết đến điểm dừng thì gọi là chạy dài..Tiểu đoàn 47 từng được ông Chính ủy Bộ tư lệnh Quân khu 4- Thiếu tướng Lê Quang Hòa- đánh giá là tiểu đoàn đánh hay nhất Miền Bắc, thế mà đã có một cuộc chạy dài..Cú chạy dài “ hoành tráng” này tôi cũng đã tả lại khá chân thực trong tiểu thuyết Cửa gió. Nay kể lại tóm tắt thế này.
               Sau trận đánh lịch sử vào cứ điểm Dốc Miếu rạng sáng ngày 19 tháng 5, cả tiểu đoàn hả hê kéo về trấn giữ những khu đồi phía đông đường 76. Cấp trên nhận định, bọn địch sẽ kéo quân từ Đông Hà lên để chiếm lại cao điểm Dốc Miếu, vì vậy nhiệm vụ tiểu đoàn là phục kích đánh chặn viện binh. Đội hình tiểu đoàn trải rộng lên nhiều vị trí khác nhau của những gò đồi đất sỏi đỏ với lúp xúp những lùm bụi, nhiều nhất là sim..Ngày thứ nhất, chúng tôi khá căng thẳng..ngày thứ hai..sự căng thảng có phần giảm đi. Qua ngày thứ ba, vẫn không thấy viện binh, đám lính chúng tôi đã bắt đầu chủ quan. Hầu hết đều lên khỏi các hầm, tìm hái sim chín. Chiều đến, mặt trời đã xuống thấp phía Trường Sơn, đấy là lúc chúng tôi thấy thoải mái nhất..Tất cả đều lên khỏi các hầm, có đứa còn hát hò, trêu chọc nhau và sục tìm sim để ăn. Bất ngờ nghe tiếng trực thăng..Tất cả nhìn về phía Đông Hà..Chúng tôi nhìn thấy rất nhiều trực thăng giăng thành hàng bay lên phía tây. Điều lạ là, dưới bụng mỗi chiếc trực thăng đều treo lủng lẳng một cái gì đó như là chiếc hòm lớn.Ánh nắng chiều chiếu vào khiến cả máy bay lẫn những “chiếc hòm” dưới bụng đều ánh lên một màu vàng nâu lấp lánh..Đám lính chúng tôi vẫn đứng ngẩn tò te mà ngắm, có đứa còn nhận định, máy bay Mỹ đang chở những hòm hàng tiếp viện lên Khe Sanh..Thì bất ngờ trực thăng hạ độ cao và lừ lừ tiến thẳng đến những khu đồi của chúng tôi..Rồi tất cả đều hạ cánh xuống..Lúc này cả đám chúng tôi mới hốt hoảng. Chưa kịp định thần để suy nghĩ xem bọn địch định làm gì thì đột ngột ai đó ở phía dưới hét to: xe tăng!..
               Thú thực là mặc dù đã được huấn luyện đánh xe tăng và hầu hết các đơn vị đều có trang bị vũ khí chống tăng ( B 40 và B 41), tuy nhiên từ ngày vào chiến trường đến giờ chưa bao giờ chúng tôi được trực tiếp nhìn thấy chiếc tăng..Thế nên tất cả bỗng trở nên rối loạn..Rồi bắt đầu nghe tiếng xe rú máy..Tiếng rú mỗi lúc một to..Đang lúc rối trí như thế thì không biết từ chỗ nào, có một tiếng hét: chạy đi! Một tiếng hét vô cùng tai hại. Thế là chúng tôi bật khỏi hầm và chạy. Không ai còn liên lạc được với ai, không bám giữ được đội hình tiểu đội, trung đội hay đại đội..mạnh đứa nào đứa ấy chạy, cứ nhằm vào phía bìa rừng rậm mà lao vào..Càng vào sâu trong rừng thì trời càng tối..Không biết đã chạy được bao xa nhưng tiếng rú của xe tăng vẫn cứ bám vào tai, thậm chí có cảm giác rằng tiếng rú ngày một to như thể xe tăng địch đã đuổi sát sau lưng..Về sau, khi chúng tôi đã dạn dày trận mạc, có dịp ôn lại chuyện cũ, mấy đứa chúng tôi đủ tỉnh táo để nhận ra, tất cả chỉ là ảo giác. Thực ra xe tăng Mỹ đâu có đuổi theo. Nhưng ở thời điểm đó, chúng tôi không thể đủ tỉnh táo, vì thế mà cứ đạp rừng, cắm đầu chạy..Chạy đến lúc nhìn thấy sông Bến Hải. Thế là nhào xuống sông chạy một mạch ra Vĩnh Linh..Lúc này tất cả mới có chút bình tâm để nhận ra, mình đang ở đất Vĩnh Sơn.

Khi viết tiểu thuyết Cửa Gió, đến chỗ này tôi đã dừng lại suy nghĩ rất nhiều. Có nên đưa chi tiết chạy dài bạc nhược như thế vào trong cuốn sách viết về một tiểu đoàn mà như ông Lê Quang Hòa đã khen là đánh hay nhất miền Bắc không? Nên nhớ, tôi bắt đầu viết Cửa gió tập 1 là năm 1976 ở trại viết văn Vân Hồ của Tổng cục chính trị. Thời điểm đó, không khí sử thi của đại thắng mùa xuân 1975 vẫn còn hừng hực, Đại hội Đảng lần thứ 4 cũng mới kết thúc thành công, âm hưởng chủ đạo của sáng tác văn học vẫn là âm hưởng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ở trại văn lúc đó, có mấy tiểu thuyết đã xuất bản và được các nhà xuất bản đánh giá cao tới mức coi như là khuôn mẫu cho thể loại tiểu thuyết. Điển hình là cuốn Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy. Tiểu thuyết của Thụy được ông Tiên ( trưởng phòng biên tập của Nhà xuất bản Quân đội) đưa ra làm “giáo khoa” để hướng dẫn chúng tôi mỗi khi chúng tôi mang bản thảo của mình đến nộp. Vì lẽ đó mà tôi đã đắn đo mãi, nếu mình dựng lại một sự thật “không anh hùng” như thế trong tiểu thuyết có bị coi là sai trái, là thiếu quan điểm lập trường không? Nhưng cuối cùng tôi vẫn viết. Tôi cứ nghĩ nếu không dựng lại cuộc chạy dài này, có lẽ mình vẫn chưa nói đúng cả phần xác lẫn phần hồn của tiểu đoàn 47. Trong Cửa gió, không chỉ có câu chuyện chạy dài được viết rất sinh động mà còn nhiều sự kiện “ trái lề” khác nữa. Ví dụ như việc khắc họa nhân vật tên Trưởng đoàn bình định ngụy đem lòng mến cảm với một cô gái mà hắn biết chắc là cơ sở cách mạng, hay nỗi cô đơn, có lúc thất vọng đến mức dao động của mẹ con của một cơ sở cách mạng, hay xây dựng nhận vật Vũ Nam Khang cơ hội, hèn nhát trong đợn vị 47 mà luôn gặp may đến mức trở thành gương điển hình về thành tích bắn cháy trực thăng Mỹ..v..v..Nếu là hôm nay, việc dám viết những điều như thế có lẽ chẳng có gì đáng nói. Nhưng xin nhắc lại, đấy là thời điểm vừa mới giải phóng miền Nam..Vì thế nên Cửa gió đã không được chào đón từ đầu như tôi mong muốn. Có một kỉ niệm vừa vui vừa buồn về việc xuất bản tiểu thuyết Cửa gió mà lúc đó cả trại văn Vân Hồ ai cũng biết. Khi viết xong bản thảo, do tính nhút nhát nên tôi nhờ Nguyễn Khắc Trưởng ( thời ấy đó có bút danh Thao Trường) dẫn tôi lên gặp cán bộ biên tập Nhà xuất bản. Người tiếp chúng tôi chính là ông Tiên. Chưa kịp nghe chúng tôi trình bày về bản thảo, ông ấy đã rất nhiệt tình nói một thôi một hồi về quan điểm và kĩ năng viết tiểu thuyết..mà “ giáo cụ trực quan” của bài giảng ấy không gì khác mà chính là tiểu thuyết Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy..Ông ấy nói đại ý theo kiểu như thế này. Muốn hình thành một cốt truyện tiểu thuyết thì phải..như thằng Thụy ấy, phải có lô gic..có tính quy luật..Tiểu thuyết cần có hào khí..như Cơn gió lốc của thằng Thụy ấy..Còn nữa, trong tiểu thuyết, nhận vật cần phải thế này, thế nọ..như thằng Thụy ấy..Vân vân và vân vân…Nghe một lúc, tự thấy tiểu thuyết mình rất thiếu những yếu tố “như thằng Thụy ấy”, tôi đưa mắt ra hiệu cho Thao Trường. Cả hai đứng dậy chào, rồi lẳng lặng ôm tập bản thảo về. Dạo đó ở trại văn Vân Hồ, anh em sống rất vui vẻ..Nhàn rỗi nên hay làm vè làm tấu trêu nhau. Có bài vè ( thực chất không biết ai là kẻ khởi nguồn) phác họa chân dung tất cả anh em trong trại rất tếu. Tôi nhớ mấy đoạn thế này: Điệu đàn Đào Thắng/ bắng nhắng Đăng Khoa / ba hoa Trọng Tạo / đạo mạo Xuân Mai / nguồn dài Tô Chiêu / lắm điều Quang Tính / lỉnh kỉnh Dương Duy / A quy Thái Vượng / trịch thượng Xuân Đức / đĩ đực Chu Lai..v..v..Hòa vào cái không khí vui vẻ ấy, tôi cao hứng tự tác ra một bài gọi là Tiểu thuyết toàn tê ( vần t) để kể về sự việc mang bản thảo Cửa gió đến Nhà xuất bản Quân đội. Tôi chỉ nhớ vài đoạn đầu thế này: Thưa thầy Thiều, thưa toàn trại! Tháng trước, tôi theo Thao Trường tới thăm Trung tá thủ trưởng Tiên, tiện thể trình thủ trưởng tiểu thuyết tam tập. Tính tôi thường trịch thượng, tự tin, thêm toàn trại tất tất tấm tắc tán thưởng, thành thử tôi tưởng tiểu thuyết tôi thật tuyệt..Tiếc thay, trông thấy tôi, thủ trưởng Tiên trợn tròn thét te tát: Tiểu thuyết thiếu tính thực tế, thiếu tính tư tưởng, thiếu tính thằng Thụy..Thưa thầy Thiều, thưa toàn trại! Từ thủa theo thầy, tòng teng thơ truyện, thương thay, tới tận trạc tuổi tứ tuần tay trắng tuyền tay trắng…Chuyện vui đồn đến tai Nhà xuất bản Quân đội. Một bữa lên chơi nhà Chu Lai, vợ Chu Lai là cô Hồng lúc ấy đang làm biên tập ở nhà xuất bản liền hỏi, nghe nói anh làm thơ giễu ông Tiên? Em thấy ông Tiên là người rất tốt cơ mà..Tôi vội nói ngay, là chuyền đùa tếu ấy mà, nếu ông ấy giận thì cho tôi xin lỗi nhé..Ai cũng biết là chuyện đùa tếu, nhưng sau lần đó tôi đã tự nhủ mình, mọi cái vui, cái tếu đều nên có giới hạn.
Khi tiểu đoàn 47 được lệnh quay ra bắc sông Bến Hải chuẩn bị trận địa để sẵn sàng đánh địch đổ bộ đường không, cả đơn vị đều dàn quân trên địa bàn xã Vĩnh Chấp, một xã cực bắc của Khu vực Vĩnh Linh, giáp với Quảng Bình. Đây là một xã vùng đồi, rất nghèo, hầu hết là đất đồi sỏi lơ thơ lùm bụi với loại cây đặc sản là muồng, sim, me..Có một vài mảnh ruộng nhỏ thì thuộc loại ruộng bám theo khe nước, dân địa phương gọi là choi, đất pha cát, đặc phèn. Phía bắc xã là một dãy đồi nhấp nhô hình thành các cao điểm trong bản đồ tác chiến với tên gọi được đặt theo bình độ, tức độ cao so với mặt nước biển. Trên các ngọn đồi vẫn còn lưu lại nhiều bong-ke bằng bê tông từ thời Pháp để lại. Đấy chính là khu vực mà cấp trên nhận định có khả năng bọn Mỹ sẽ đổ quân nếu chúng thực hiện âm mưu tập kích ra miền Bắc. Đại đội của tôi nhận nhiệm vụ đào hệ thống công sự, chủ yếu là giao thông hào từ chân đồi lên đỉnh của cao điểm 43. Nhớ lại những ngày tháng ấy tôi có thể gọi đây là giai đoạn “hành xác” nhất trong đời lính của mình.
               Buổi sáng, sau khi ăn cơm xong, nhà bếp làm cơm nắm phát cho từng người, rồi tất cả cán bộ chiến sĩ, vai đeo đầy đủ dụng cụ đào hào như cuốc chim, xẻng, tập họp theo đội hình từng tiểu đội, trung đội tiến ra phía chân đồi 43. Thời gian này, máy bay Mỹ thường ném bom theo cách mà chúng tôi gọi là bom “tọa độ”.Nghĩa là, mục tiêu cắt bom được chúng xác định trước bằng tọa độ trên bản đồ. Từng tốp máy bay cách nhau chừng vài chục phút, từ ngoài biển hoặc phía nam bay ra, hạ độ cao rồi cắt bom, không cần biết ở dưới mục tiêu ấy hiện có gì không. Khu đồi Vĩnh Chấp là một trong những tọa độ trọng điểm mà máy bay thường cắt bom.
               Để đối phó với kiểu ném bom “tọa độ” ấy, phương thức đào công sự của đơn vị được lên phương án như sau. Bộ đội nấp dưới chân đồi, chờ đợi máy bay bay địch ra cắt xong một lượt bom thì nhanh chóng chạy lên vị trí đã được phân công trước cho từng người. Mỗi người bằng mọi giá trong vòng 15 đến 20 phút phải tự đào cho mình được một khoanh đất thấp để sẵn sàng ép người xuống nếu có tốp máy bay tiếp theo xuất hiện…Sau khi máy bay tốp sau cắt bom xong thì lại nhô lên đào tiếp..Cứ vậy cho đến khi hình thành nên đường giao thông hào..Kịch bản trên giấy thì có vẻ hợp lí, nhưng thực địa lại cam go vô cùng. Đất trên cao điểm là đất sỏi, sườn đồi khá dốc lại bị bào mòn bởi mưa nắng hàng trăm năm, gần như không còn chút đất thịt nào, tất cả trơ khấc ra toàn sỏi cứng. Dụng cụ đào đất chỉ có chiếc xẻng nhỏ cầm tay và một chiếc cuốc chim đầu dẹt, đầu nhọn. Tháng tám ở miền trung nắng rát mặt, cháy lưng. Chúng tôi phải đào hào lúc nào cũng trong trạng thái nín thở như vận động viên chạy cự li ngắn..Nếu có tiếng máy bay mà chỗ đất đang đào vẫn chưa đủ độ sâu để ẩn mình thì phải co chân chạy vụt vào nấp trong một bong-ke gần nhất..Bom nổ, khói trùm cả một vùng đồi. Mảnh bom bay ràn rạt, mùi cháy khét lẹt..Cứ thế, hết ngày này qua ngày khác, cực nhọc, căng thẳng không thể kể xiết.

Thời đó ở cấp đại đội có một hình thức dân chủ cho quân nhân là thành lập Hội đồng quân nhân, một tổ chức gần giống với Công đoàn ngoài dân sự. Những người được lựa chọn bầu vào Hội đồng quân nhân là người có uy tín nhưng ở cấp thấp, từ Trung đội phó trở xuống. Nhiệm vụ của Hội đồng quân nhân chủ yếu chỉ để lo hai việc. Một là giám sát chuyện ăn uống, thực hiện các chế độ của Quản lí nhà bếp xem có chi đủ tiêu chuẩn không, có tích cực cải thiện bữa ăn không, có xè xẻo bớt xén tiêu chuẩn của bộ đội không? Đấy gọi là công tác đời sống. Nhiệm vụ thứ hai là chăm lo đời sống tinh thần mà cụ thể là hình thành Câu lạc bộ để tập văn nghệ, phổ biến các bài hát cho bộ đội.

Ở đại đội lúc đó không ai biết tôi có năng khiếu văn nghệ mà chỉ biết tôi từng làm Quản lí trên Khu đội, vì thế mà tôi được bầu vào Hội đồng quân nhân phụ trách đời sống. Còn cậu Quỳnh, một người rất đẹp trai thường xuyên được hoá trang thành con gái trong các lần diễn văn nghệ, phụ trách Cậu lạc bộ.

Một buổi tối, tôi được Chính trị viên Khoa gọi lên báo cáo tình hình ăn uống của đơn vị, khi trở ra đến đường hào bên ngoài thì nhìn thấy Quỳnh đang đứng với vài ba cậu nữa tranh luận say sưa chuyện gì đó. Nghe kĩ tôi nhận biết họ đang bàn luận xem nên hát bài gì ..Tôi tò mỏ hỏi thì được Quỳnh cho biết, đơn vị đang chuẩn bị tập tiết mục văn nghệ để tham gia hội diễn Tiểu đoàn. Quỳnh cũng nói thêm, trong nhóm Câu lạc bộ đang bàn nên hát bài này..bài này..và hỏi tôi có được không? Bất giác tôi nghĩ tới cái cảnh khốn khổ trong những ngày đào hào vừa qua và thấy chạnh lòng, mấy cậu này tới đây sẽ được nghỉ đào hào để tập văn nghệ, sướng thế, vì sao đại đội không cho mình được tham gia ? Tôi liền nói, chúng mày tham gia Hội diễn văn nghệ mà toàn hát mấy bài Trung ương, lại thêm mấy cái giọng thuốc lá khê đặc như chúng mày thì làm sao được giải? Quỳnh nói, biết thế nhưng phải làm sao? Tôi liền mách nước, đi thi muốn thắng cần phải có tiết mục tự biên tự diễn nói về nhiệm vụ của đơn vị mình may ra mới được giải. Quỳnh nói, chúng tao biết thế rồi, nhưng làm sao mà tự biên tự diễn được đây? Tôi khẽ cười, nói, mày báo cáo với Chính trị viên cho tao nghỉ đào hào mấy hôm, tao sáng tác cho..Nói rồi tôi quay đi luôn, nghe đằng sau tiếng thằng Quỳnh kêu oai oái: Này..mi nói thiệt hay nói chơi đó.
                Sáng hôm sau, tôi vẫn dậy như bình thường, ăn sáng, nhận cơm vắt, cài cuốc xẻng lên vai chuẩn bị lên cao điểm thì bất ngờ cậu liên lạc đại đội chạy xuống. “Đồng chí Đức lên gặp Chính trị viên!”

Chính trị viên đại đội 2 Trần Đăng Khoa, cấp hàm trung úy, dân Thừa Thiên lấy vợ Quảng Bình, xét trên nhiều phương diện đều thuộc loại phong độ bậc nhất tiểu đoàn. Vóc dáng to mập, mặt vuông chữ điền, mắt to, môi dày, lông mày rậm, tóc rễ tre ốp cứng trên đầu..Về danh tiếng cũng ăn đứt những Chính trị viên khác. Trước khi được điều về tiểu đoàn 47, Trần Đăng Khoa là Chính trị viên phó đảo Cồn Cỏ, mà thời gian ấy Cồn Cỏ là địa danh nổi tiếng cả nước. Với cương vị Chính trị phó hòn đảo anh hùng nên ông Khoa được cơ cấu trong đoàn anh hùng chiến sĩ thi đua Quân khu 4 và chiến trường miền Nam ra dự Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc và được cho vào Phủ chủ tịch gặp Bác Hồ..Sau này, nghe vài người kể rằng, khi gặp Bác, ông Khoa cứ cố chen mấy anh chị miền Nam để được ôm sát vào Bác chụp ảnh..Đấy là tôi nghe người khác kể lại với cái giọng đầy chất đàm tiếu như vậy, còn thực hư thế nào thì tôi không có điều kiện kiểm chứng. Còn vào thời kì Trần Đăng Khoa về làm Chính trị viên đại đội tôi, đám lính trẻ cứ phải há hốc mồm ra  mà nghe thủ trưởng kể chuyện chiến đấu ở đảo và đặc biệt nhất là chuyện gặp Bác Hồ. Có lẽ ông phải kể tới hàng chục lần…
               Chính trị viên Khoa nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ: Này, nghe mấy đồng chí bên Cậu lạc bộ báo cáo là cậu nhận sáng tác tiết mục cho anh em đi hội diễn phải không?Tôi hơi lúng túng: Báo cáo thủ trưởng..là em cũng..góp ý vậy thôi.

- Tốt. Chính trị viên kết luận gọn lỏn. Cậu nghỉ đào hào, viết ngay một tiết mục, chiều nay đưa lên đây tôi xem.
               Tôi hoảng quá kêu to: Ối, chiều nay thì sao kịp ạ?
               - Thì tối..chập tối cũng được..
               - Báo cáo thủ trưởng..chập tối thì cũng vội quá..em không sáng tác kịp đâu ạ? Ông Khoa trợn mắt lên, lúc ấy trông ông thật đáng sợ:
               - Này này..cậu cũng đã đào hào..Một ngày đào được bao nhiêu mét? Cả một ngày mà chỉ sáng tác một tiết mục lại kêu không kịp..Tư tưởng tiến công cách mạng đâu? Thôi, về đi, khẩn trương chấp hành nhiệm vụ.          

Tôi trở về hầm, việc đầu tiên là lăn ra ngủ. Trong đời làm lính cái thèm muốn thường trực đối với lính trẻ là ngủ. Lúc nào cũng đói ngủ. Suốt cả đợt đào giao thông hào này chúng tôi đã bị bào mòn sức lực khủng khiếp nên càng thèm ngủ. Tôi ngủ một lèo đến khi tỉnh dậy đã quá trưa. Lấy cơm vắt ra ăn, định ngủ lại, nhưng chợt nhớ là cần phải tắm giặt. Thế là ôm toàn bộ chăn màn ra khe nước lạnh, vừa tắm vừa giặt, vừa tranh thủ nghĩ ngợi xem phải đối phó thế nào với cái mệnh lệnh khắc ngiệt của Chính trị viên Khoa..Có lẽ nhờ nước mát mà tôi đã “ phát kiến” ra hai quyết định cực kì quan trọng, nó có tính quyết định đến cuộc đời của tôi trong những năm tiếp sau. Quyết định thứ nhất là ý tưởng sáng tác. Cả đợt đào giao thông hào này, Chính trị viên Khoa đưa ra một khẩu hiệu để hô hào toàn đơn vị nghe rất kêu,  đó là chiến dịch “đường hào diệt Mỹ”.( Thực ra không biết có phải là sáng kiến của Chính trị viên đại đội hay là khẩu hiểu của tiểu đoàn, nhưng ông Khoa nói là do ông ấy nghĩ ra?). Tôi quyết định lấy luôn tên  “ Đường hào diệt Mỹ” làm tiêu đề cho tiểu phẩm của mình chắc chắn sẽ làm cho Chính trị viên khoái chí, hài lòng. Quyết định thứ hai là chọn thể loại. Lúc đầu tôi định viết một kịch vui..Nhưng suy đi tính lại, diễn kịch nói sẽ rất khó cho cái đám văn nghệ quá nghiệp dư trong đại đội, hơn nữa ( mà cái này mới quan trọng hơn) nếu kịch nói, sau khi mình sáng tác xong, Chính trị viên sẽ coi như mình đã hoàn thành nhiêm vụ, bắt giao lại kịch bản rồi phải tiếp tục lên đồi đào hào..Nếu thế thì..xôi hỏng bỏng không? Tôi quyết định viết một hoạt cảnh dân ca Bình Trị Thiên với một loạt các làn điệu mà tôi biết chắc cả đơn vị sẽ không có ai biết hát. Đúng như tôi dự đoán. Tối đó tôi lên đưa bản thảo cho ông Khoa rồi điềm nhiên trở về ngủ, sáng mai thức dậy, lại điềm nhiên nai nịt gọn gàng ra vẻ sẵn sàng lên cao điểm. Vẫn không thấy có dấu hiệu gì, tôi hơi lo lắng..Khi cả trung đội đã lên tới chân đồi 43 thì thấy cậu liên lạc hớt hải chạy lên. “Đống chí Đức về gấp gặp Chính trị viên”. Tôi khẽ cười thầm và vác cuốc xẻng về liền. Về đến lán chỉ huy, tôi đã thấy đám thằng Quỳnh vây quan ông Khoa. Vừa nhìn thấy tôi, Chính trị viên Khoa nói ngay. Cậu viết cái bài này rất đúng chủ trương của đơn vị, hay đấy, nhưng sao lại viết mấy cái điệu gì thế này, chúng nó có đứa nào biết hát đâu? Tôi thưa, báo cáo thủ trưởng, hội diễn văn nghệ mà mình hát nhạc mới là không “ăn” đâu, phải hát dân ca địa phương mới được chấm ưu tiên. Chính trị viên Khoa gật mạnh đầu nói, đúng..phải văn hóa truyền thống dân tộc..Nhưng ai dạy cho anh em hát đây? Tôi nói, nếu anh em không biết thì để tôi dạy cho. Ông Khoa sáng mắt lên, cậu giỏi quá ha..tốt lắm. Tớ quyết định bổ sung cậu vào Câu lạc bộ trực tiếp “đạo diễn” chương trình cho anh em..
               Thế là từ hôm đó, tôi được nghỉ hẳn nhiệm vụ đào giao thông hào để tập văn nghệ. Sau khi tập xong màn hoạt cảnh Đường hào diệt Mỹ, tôi viết tiếp một vở kịch ngắn cũng bằng dân ca, lại tiếp tục tập..Chương trình văn nghệ của Đại đội 2 đạt giải nhất Hội diễn tiểu đoàn. Sau đó, tiểu đoàn chọn Đại đội 2 đại diện đi dự Hội diễn toàn Bộ Tư lệnh. Chương trình của tiểu đoàn 47 cũng đạt giải nhất..Sau đợt hội diễn ấy, Bộ tư lệnh Vĩnh Linh quyết định thành lập một đội Tuyên truyền văn hóa, gọi tắt là đội Tuyên Văn..Việc ra đời đội Tuyên Văn không phải sáng kiến riêng của Bộ Tư lệnh Vĩnh Linh. Vào thời kì ấy, hầu như tất cả các tỉnh đội trên tuyến lửa Quân Khu 4 đều thành lập đội Tuyên Văn. Phong trào “tiếng hát át tiếng bom” ra đời vào những ngày tháng đó. Dĩ nhiên, tôi là cái tên được điều động đầu tiên lên đội để đàm nhận nhiệm vụ sáng tác. Thế là bắt đầu từ đó, tôi trở thành người sáng tác văn nghệ chuyên nghiệp, có quay trở lại tiểu đoàn 47 tham gia chiến đấu nhưng với tư cách là tác giả đi thực tế.. Sau ba năm gắn bó với đội Tuyên Văn Vĩnh Linh, tôi được điều ra làm cán bộ sáng tác cho đoàn Văn công Quân Khu 4..Rồi sau bảy năm ở Quân Khu 4, tôi lại được Tổng cục chính trị điều ra Hà Nội phối hợp với tác giả Đào Hồng Cẩm để viết vở Tổ quốc cho đoàn kịch Tổng cục chính trị biểu diễn phục vụ Đại hội Đảng toàn quốc lần thư tư..Rồi chuyển về trại sáng tác Vân Hồ, học khóa 1 trường viết văn Nguyễn Du. Tốt nghiệp, lại trở về Ban sáng tác của Nhà hát nghệ thuật quân đội cho đến cuối năm 1989, chuyển ngành về Quảng Trị.
Đến đây tạm dừng không đăng nữa.



 Đăng ngày 16/12/2014
Ý kiến về bài viết
  Gửi bởi: Đất Vĩnh - 18/12/2014

Thế là tôi viết tiểu thuyết..Bản thảo tiểu thuyết ấy chỉ mới có mấy chương, bởi sau những cảm xúc thơ mộng của hai nhân vật chính thì.. không còn biết phải hư cấu cốt truyện thế nào nữa. He he Giá như bản ấy còn thì bây giờ có giá lắm bác hí
Ý kiến về bài viết
  Gửi bởi: Trần Thị Trà My - 13/01/2015


Nhân dịp đọc tự truyện VĂN VÀ ĐỜI của Bác Xuân Đức, cháu mạo muội đưa lên bài viết (trích một phần trong luận văn của cháu). Có gì mong Bác thông cảm!
CHIẾN TRANH VỚI VÙNG ĐẤT ĐÔI BỜ MỘT DÒNG SÔNG VÀ SỐ PHẬN CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT XUÂN ĐỨC QUA CỬA GIÓ VÀ BẾN ĐÒ XƯA LẶNG LẼ

1.1.         Chiến tranh đến từ làng biển Vĩnh Linh với những khốc liệt, bất thường, và những trận đánh quyết liệt (tiểu thuyết “Cửa gió”)
Văn học nghệ thuật là tấm gương phản chiếu thời đại, phản ánh hiện thực đời sống con người và ngược lại hiện thực là mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng văn học. Có thể nói tính hiện thực là một thuộc tính tất yếu của văn học nghệ thuật. Hiện thực chiến tranh là đối tượng cần chiếm lĩnh của văn học Việt Nam, đặc biệt với thể loại tiểu thuyết. Sau 1975, hiện thực chiến tranh được nhiều nhà văn quan tâm phản ánh, song sự nhìn nhận đánh giá về hiện thực chiến tranh có sự thay đổi: bên cạnh mặt tốt có cả mặt xấu, bên cạnh cái cao cả có cái thấp hèn, bên cạnh cái anh hùng còn có cả cái bi thương. Sự nhìn nhận về chiến tranh không còn một chiều như trước nữa mà được nhìn nhận một cách đa diện, nhiều chiều sâu sắc và toàn diện hơn. Có thể dễ dàng thấy được sự chuyển biến này từ việc tìm hiểu hiện thực chiến tranh qua hai cuốn tiểu thuyết của Xuân Đức tiêu biểu cho hai thời kì văn học: Cửa gió (văn học thời kì tiền đổi mới), và Bến đò xưa lặng lẽ (văn học thời kì sau đổi mới). Nét đặc biệt trong hai cuốn tiểu thuyết này là ở chỗ, hiện thực chiến tranh được tập trung chủ yếu vùng đất đôi bờ một dòng sông: đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, Quảng Trị.
                Tiểu thuyết là sự sống, là hình ảnh về đời sống và đồng thời nó cũng là sự biểu hiện về tâm hồn. Xuân Đức bằng tài năng, vốn sống, tình yêu, và sự gắn bó với một miền đất, miền đời nhiều cơ cực, lắm khổ đau nhưng rất đỗi kiên gan vững chí, anh hùng trong đấu tranh cũng như trong lao động, Xuân Đức viết văn với “bút sắt lòng son” và “nghiên mực” Hiền Lương về con người về miền đất Quảng Trị anh hùng.
Chiến tranh - một thử thách về bản lĩnh của cả dân tộc và con người Vĩnh Linh - Quảng Trị. Nơi đây đã từng là mảnh đất đầu cầu tuyến lửa khu Bốn đầy đau thương nhưng oai hùng. Lấy cảm hứng từ vùng đất đôi bờ dòng sông Bến Hải ngày đó (cách đây tròn 60 năm, ngày 20/7/1954, đất nước ta tạm thời chia cắt thành 2 miền Bắc - Nam, vĩ tuyến 17, cầu Hiền Lương - sông Bến Hải là giới tuyến quân sự tạm thời), nhà văn Xuân Đức viết nên hai cuốn tiểu thuyết Cửa gió và Bến đò xưa lặng lẽ. Mảnh đất “trầm tích” lịch sử và tình người luôn là nơi mà mỗi độ tháng Bảy về nhân dân cả nước ta lại hướng về đó, dâng lên nén tâm nhang tưởng nhớ và tri ân các anh hùng liệt sỹ đã hi sinh vì Tổ quốc. Nhà báo Đăng Đức viết: “Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải những năm tháng bị chia cắt, dù chỉ cách nhau một khoảng cách rất ngắn, một con sông chỉ rộng khoảng 100m, nhưng có biết bao gia đình phải sống cảnh biệt ly mà không có cơ hội được đoàn tụ. Đối với người dân Vĩnh Linh, Quảng Trị, đấy mới chỉ là sự chia cắt ở phạm vi gia đình, còn đối với đất nước, dân tộc Việt Nam thì đấy là nỗi đau quá lớn, như khúc ruột bị chia làm hai. Suốt những năm tháng chiến tranh khốc liệt, nhân dân hai bên chỉ biết nhìn sang bên bờ, thấy lá cờ đỏ tung bay trên cột cờ mà ngậm khóc…” <25>.
Trong tác phẩm Cửa gió, hiện thực chiến tranh trước hết là cuộc chiến tranh đến từ làng biển Vĩnh Linh với những bất thường, những trận đánh quyết liệt được Xuân Đức tái hiện chân thực, sinh động.
Hiện thực chiến tranh thường gắn với những sự kiện lịch sử trọng đại. Có thể nói như Lại Nguyên Ân rằng, “sự kiện lịch sử ở đây không chỉ làm cái nền, cái đường viền cho câu chuyện về các nhân vật trong cuốn sách. Ở đây lịch sử trở thành đối tượng miêu tả trực tiếp. Ở đây sự kiện cần có vị trí ngang hàng so với số phận các nhân vật. Ở đây lịch sử chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cốt truyện” <3; 120>. Ta thấy rõ điều đó trong tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975, qua những tác phẩm tiêu biểu: Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh; Họ cùng thời với những ai của Thái Bá Lợi; Cửa gióBến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức; Năm 1975 họ đã sống như thế Nguyễn Trí Huân; Đất miền Đông của Nam Hà... Đất trắng nói về cuộc chiến đấu cam go, quyết liệt của những con người vùng đất thép Củ Chi, Gia Định ở “khúc cuối” chiến dịch Mậu Thân. Họ cùng thời với những ai miêu tả những trận chiến đấu của bộ đội ở bờ nam sông Bến Hải vùng chiến trường Quảng Trị khét tiếng về bom đạn và sự tổn thất xương máu trong chiến dịch Tám mươi mốt ngày đêm không thể nào quên. Năm 1975 họ đã sống như thế viết về những cuộc chiến đấu từ tháng ba đến hết tháng tư năm 1975, trực tiếp góp phần đánh tan hàng chục sư đoàn địch, giải phóng bốn thị xã lớn: Quy Nhơn, Phan Rang, Bà Rịa và Vũng Tàu. Đất miền Đông viết về quân và dân miền Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phong miền Nam, thống nhất đất nước;... Khác với các tác phẩm trên, Cửa gió đi sâu vào miêu tả những trận đánh của quân và dân Vĩnh Linh - Quảng Trị vào thời gian đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Cửa gió, nhan đề tiểu thuyết đã tạo ấn tượng với bạn đọc ngay từ những phút ban đầu. Nó mang hai nghĩa: Thứ nhất, Cửa gió dùng để chỉ mảnh đất Vĩnh Linh, mảnh đất miền cửa gió của thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt nhất cả nước, nơi đây đón đầu cái gió tây Nam bỏng rát thổi vào: “ở trên Trường Sơn có một đoạn núi thấp xuống. Gió bên phía tây thổi qua, gặp núi trút mưa xuống sườn bên đó, còn lại cái xác nóng thì tuôn hết qua cửa đó mà sang đây” <29; 420> khiến cho mảnh đất gió lào cát trắng này thiên nhiên đã khốc liệt lại trở nên nặng nề hơn. Thứ hai, “cửa gió” còn là cửa sông nơi cuối tầm huyện Gio Linh, cái cửa sông của vùng quê vừa rất nhỏ vừa rất nghèo, nhưng lại mang hàm ý đại diện cho cửa ngõ một đất nước: Cửa Việt. Nhan đề của cuốn tiểu thuyết gợi nhớ một thời: cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải những năm tháng bị chia cắt, biết bao gia đình phải sống cảnh biệt ly mà không có cơ hội được đoàn tụ. Đối với người dân Vĩnh Linh, Quảng Trị, đó là sự chia cắt, li tán gia đình. Trên hết đó là sự chia cắt hai miền đất nước, như khúc ruột bị chia làm hai, nỗi đau lớn của đất nước, dân tộc Việt Nam, nên Cửa gió còn để chỉ một miền đất giới tuyến. Vĩnh Linh nằm phía bắc “dòng sông Tuyến” (như cách gọi của nhà văn Nguyễn Tuân) “với địa bàn chưa đầy một huyện, số dân chưa tới tám vạn người” <29; 70>, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trở thành điểm nút chính trị - quân sự địa đầu giới tuyến, mảnh đất cửa ngõ này là nơi đọ sức, đọ lực, đọ ý chí và trí tuệ của ta và địch. Nó thực sự xứng đáng như thế trong một thời điểm đặc biệt của lịch sử đất nước, trong những năm tháng đất nước ta bị đội quân khổng lồ, hùng mạnh nhất thế giới đến xâm lược. Với cuộc đối đầu khốc liệt ấy, “Quảng Trị đã trở thành nơi hội tụ sức mạnh của cả dân tộc. Và Cửa Việt những năm tháng ấy cũng thật sự trở thành cửa lửa, cửa thép và cả cửa máu của Việt Nam” <35>. Do vậy Cửa gió còn là một miền đất “huyền tích”, miền đất anh hùng của ý chí dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất nước nhà.
Mở đầu Cửa gió là cuộc đụng độ giữa đoàn quân tiếp tế đảo Cồn Cỏ và kẻ địch. Xuân Đức cho người đọc thấy được sự giáp mặt ban đầu của Vĩnh Linh với cuộc chiến: “Đoàng, xiu... uỳnh!... Nghĩa là đánh nhau dữ tợn rồi… Không thấy tàu, cũng không thấy thuyền. Chỉ có những vệt lửa đan chéo nhau sát rạt mặt nước... Súng cứ mỗi lúc nổ một căng thêm” <29; 11>. Một cuộc đụng độ không cân sức giữa ta và địch, kẻ địch với sức mạnh của khí giới hiện đại (tàu chiến, lưới sắt, quân lính được huấn luyện đánh trận chuyên nghiệp). Đội tiếp tế Cồn Cỏ là những ngư dân Vĩnh Linh khỏe mạnh, rất giỏi trong việc ra khơi vô lọng, còn đánh trận thì thật sự chưa có kinh nghiệm. Do vậy mà toàn đội, một phần đã anh dũng hi sinh, một phần bị địch bắt giam ở nhà giam Đông Hà. Thế rồi những tang tóc đau thương bắt đầu ô nhiễm bầu không khí trong lành của vùng quê yên ả: “chiến tranh bắt đầu rồi. Tang này chưa chịu xong sẽ dồn thêm tang khác” <29; 11>. Mở đầu tác phẩm không phải là cảnh hành quân với khí thế ngất trời và sức mạnh phi thường hội tụ về chiến trường Khe Sanh như trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu mà là cảnh chết chóc, đau thương với màu trắng khăn tang bao trùm cả làng biển cửa Tùng Vĩnh Linh. Lối mở đầu bằng chết chóc, mất mát, với những hình ảnh bi thương từ nhân dân ta như thế này, thật chưa có trong tiểu thuyết viết về chiến tranh trước đây.
Chiến tranh đến thật bất ngờ và cũng thật khốc liệt, những ngôi nhà mới đây thôi đang đầm ấm, sum vầy, hạnh phúc, thì giờ đây mất mát tang tóc bao trùm. Thật đau đớn biết bao nhiêu, buổi lễ truy điệu những người con ưu tú của làng biển Vĩnh Linh diễn ra trong nghẹn ngào: “Những mái đầu cúi gằm xuống, rung rung. Khối người cố đứng thật im nhưng ngực họ vẫn dội lên từng tiếng nấc nghẹn đắng. Hương khói từ trên bàn thờ bay tràn xuống trùm lên khối người. Hương từ các ngõ nhà lan ra. Cả vùng biển Cửa Tùng trong bùi ngùi xót thương” <29; 15>. Toàn dân làng biển Cửa Tùng trong không khí thiêng liêng trang trọng của buỗi lễ truy điệu tưởng nhớ, ghi công và cầu mong các liệt sỹ - những đứa con ưu tú của làng yên nghĩ trong lòng biển yêu thương. Tất cả, không ai nói gì, nhưng họ đều ý thức sâu sắc rằng: “Đằng nào cũng chẳng tránh né được nỗi đau. Đất giới tuyến như bản lề”, “thằng Mỹ, thằng Ngụy” muốn đặt chân “lên mảnh đất đầu cầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa”, tiếp nối truyền thống cha anh, “Vĩnh Linh ta sống còn vì cả nước”, nên phải đánh, “đánh trên đất mình và đánh ngay trong ruột chúng” <29; 18>.
Chiến tranh đến, với những khốc liệt và bất thường không lường trước được. Mỹ đổ bộ vào miền Nam ngày càng đông, “Mỹ đến y như lũ ngập, mà Vĩnh Linh lại là triền của một con đê” <29>. Những người già thì có phần “sửng sốt, bàng hoàng”, còn lớp trẻ Vĩnh Linh thì “xao xuyến và chộn rộn” trong đợt tuyển quân này, với quyết tâm cao độ lên đường nhập ngũ bảo vệ quê hương. Và thế là giữa cái gió Lào “như bào” mặt đất, “dưới lòng một khe tre ở xóm Bợc”, tiểu đoàn 47 “đứa con cưng của mảnh đất Vĩnh Linh” ra đời, “Tổ quốc đã dành tất cả cho chúng tôi, nên Vĩnh Linh chúng tôi cũng dành tất cả cho Tổ quốc” <29; 69>. Nhiệm vụ của tiểu đoàn 47 “vô cùng nặng nề mà cũng vô cùng hào hứng”, bằng mọi giá phải kéo cho được “bọn Mỹ ra bắc Quảng Trị để tạo điều kiện cho cả miền Nam đánh to thắng lớn” <29; 149>. Những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Xuân Đức tái hiện khá sinh động, chiến tranh thật khốc liệt. Cuộc chiến này biến cả Vĩnh Linh thành một mặt trận, toàn bộ người dân đương đầu với sự hủy diệt chưa từng thấy, mảnh đất giới tuyến Vĩnh Linh mang trên vai một trọng trách nặng nề mà cao cả, thiêng liêng “người dân giới tuyến lúc nào cũng nặng trịch trên vai sứ mệnh của đất nước, điều day dứt họ nhất quyết không phải là bao giờ mới trút được gánh nặng kia xuống mà là làm sao đây để vững vàng bước tới ngày chiến thắng vẻ vang”.
Cửa gió, Xuân Đức đặc biệt chú trọng tái hiện cái khốc liệt và những tình huống bất thường không thể nào lường trước được. Đó là lòng tin con người với con người, trước mưu ma chước quỷ của kẻ thù đôi lúc không tỉnh táo, bị lung lay. Trong những ngày toàn tiểu đoàn 47 đang đối diện trực tiếp với cuộc chiến khốc liệt, căng thẳng, với những mất mát đau thương trên mặt trận thì ở hậu phương người dân Vĩnh Linh sống trong đau đớn vì cứ ngỡ đứa con ưu tú của làng đang làm quân chiêu hồi, đã đầu hàng và đi theo hàng ngũ của địch. Lợi - một chiến sỹ của quân đội nhân dân, một trinh sát dũng cảm của tiểu đoàn 47, một người con ưu tú của làng sống biết yêu thương hết lòng, căm thù hết mức, dám đương đầu với bất cứ mọi thủ đoạn tàn ác nào của kẻ thù. Mỹ - ngụy dùng mọi thủ đoạn để chia cắt lòng dân. Bằng đòn “tâm lý chiến”, kẻ thù đã xuyên tạc lá thư anh viết mà chưa kịp gửi về quê nhà, lá thư viết hãy còn dang dở “bị trực thăng bốc đi” trong một trận đánh giáp lá cà vô cùng ác liệt. Làm cho Ông Chẩn - cha của anh, và chị Thảo - chị dâu của anh vô cùng đau đớn, vật vã sống trong sự hổ thẹn với bà con xóm làng. Ông Chẩn “như kẻ tụt chân xuống vực, ngập chìm trong sự đổ vỡ tan nát. Thôi từ ni thì nón cời úp mặt, chẳng bao giờ dám ngước mắt ngó xóm ngó làng!” <29; 268>. Hơn thế nữa nó còn làm cho Thuấn - cô giáo trẻ, tình yêu đầu đời của anh đau đớn nghĩ rằng người yêu mình đã bỏ trốn làm quân chiêu hồi, phản bội Tổ quốc.
Sự bất thường của chiến tranh còn thể hiện ở chỗ “hạnh phúc lứa đôi thường đặt song hành cùng sự chia biệt”. Chiến tranh làm cho mối tình đẹp đẽ giữa Tùng và Hoan có một kết cục bi thảm. Tùng và Hoan yêu nhau chưa kịp làm đám cưới, thì Tùng phải “trốn ra bắc” vào bộ đội, chiến đấu trong tiểu đoàn pháo cao xạ, Hoan ở nhà làm cơ sở cho cách mạng, mặc nhiên chị xem Tùng là chồng của mình, để rồi thủy chung chờ đợi đã gần tám năm. Thế nhưng trong cái guồng quay nghiệt ngã của cỗ xe chiến tranh ấy, Hoan “người phụ nữ miền Nam kiên trung bất khuất, một tâm hồn trong sáng giản dị” <29; 170> đã gục ngã vào vòng tay người khác, mà người đó là kẻ thù của cách mạng. Một cô gái chưa một lần phải sống xa mẹ, một tâm hồn mong manh dễ vỡ, hai mươi bảy tuổi đầu, cái tuổi căng tràn sức sống, căng tràn những khát khao thầm kín của người phụ nữ đã yêu nhưng chưa từng được sống trong vòng tay người yêu, người chồng sắp cưới dù chỉ một lần. Kẻ địch mưu mô, chúng bắt mẹ Xướng đi tù, nhà chỉ còn lại một mình Hoan, chúng bố trí “cán bộ trưởng đoàn bình định” với ngoại hình điển trai, giọng nói thì nhẹ nhàng, “thánh thót như sáo”, sống “ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với Hoan. Chúng thực hiện từng bước, từng bước một “bủa lưới giăng mồi”, để rồi Hoan hoàn toàn ran rã trong vòng tay của Tá - tên giặc khét tiếng gian thâm và độc ác. Mẹ Xướng, người mẹ của cách mạng lâm vào cảnh sống không bằng chết, lặng lẽ vô hồn, “Mẹ như người tu đắc đạo, bị cắt hết sự ràng buộc với phần đời, ngày đêm sống lửng lơ trong trạng thái vừa xa hoa, vừa lạnh lẽo” <29; 290>. Có ai mà ngờ được một cơ sở cách mạng vững chắc trong lòng ấp An Nha như thế lại nhanh chống bị kẻ thù khống chế, gây điêu đứng và tổn thất nặng nề cho tiểu đoàn 47.
Đó còn là tiếng súng của một cô dân quân bé nhỏ đã đánh thức một tâm hồn đang mê muội, đớn hèn chuẩn bị sa ngã: Phương cô gái Vĩnh Linh can trường, trong một trận đánh ác liệt, trung đội một của tiểu đoàn 47 tan tác, người chết, kẻ bị thương ngổn ngang nơi trận địa chỉ còn lại Khang (một người được xem là điển hình, là tấm gương sáng cho toàn quân noi theo). Phương gặp Khang nơi trận địa này, cô bị thương khá nặng, “cứ tỉnh một lúc lại mê. Những cơn mê về sau kéo dài hơn trước” <30; 180>. Giữa lúc sự sống và cái chết rất đỗi mong manh con người dễ bộc lộ cái yếu hèn, cái bản chất thật của mình, trong phút giây sinh tử ấy, tiếng súng của Phương đã kịp thời ngăn chặn bước chân chính trị viên Khang, có ý tưởng đầu hàng giặc, tham sống sợ chết chuẩn bị bước sang hàng ngũ kẻ thù. Phương đã cứu vớt một linh hồn sắp sa ngã, trong một thời khắc cam go, thử thách nhất.
Rồi cả tình huống gay cấn, tạo sự hồi hộp trong lòng độc giả đó là cảnh bé Cần con chị Thảo bị lạc mẹ trên đường ra Tân Kì sơ tán trong bối cảnh chiến trận. Những tưởng trong mưa bom bão đạn ác liệt của kẻ thù, bé Cần thì thơ dại như thế, em như cọng cỏ mong manh dễ đứt làm sao qua được sự ác liệt của chiến trường khi không có có mẹ bên cạnh chở che. Nhưng thật may mắn, em được sống trong vòng tay yêu thương của tiểu đoàn pháo cao xạ, trong sự chăm sóc chu đáo của Tùng, người tiểu đoàn trưởng chưa kịp lập gia đình đã vội ra chiến trường.
Chiến tranh đến với những trận đánh quyết liệt của quân và dân Vĩnh Linh. Tiểu đoàn 47 với sáu mươi tư chiến sỹ trong đó, bên cạnh những anh lính trẻ, chưa học xong phổ thông trung học như Lợi, Thái... lần đầu tiên đi chiến đấu mang theo sức trẻ và trái tim yêu đời cũng như tinh thần, nhiệt huyết yêu nước nồng nàn mãnh liệt, là những chiến sỹ già dặn kinh nghiệm và đã kinh qua chiến tranh trong cuộc kháng chiến chống Pháp như Lịch, Quý... lên đường ra chiến trường, với nhiệm vụ “vô cùng nặng nề mà cũng vô cùng hào hứng” <29; 149>. Theo chân tiểu đoàn 47, ngòi bút của Xuân Đức như một chiếc máy quay phim hiện đại, quay lại một cách chân thật, sống động về những trận đánh quyết liệt.
Đầu tiên là trận đánh Dốc Miếu được Xuân Đức miêu tả khá tỉ mỉ: Cứ điểm này là cái đinh chắc chắn nhất, khỏe nhất trong hệ thống phòng thủ của Mác Na-ma-ra, nó tạo nên thế gọng kìm của Mỹ đối Vĩnh Linh, từ khi xây dựng đến giờ, “mười ba năm nay” nó chưa bị đánh lần nào. Quân và dân ta xác định tinh thần: phải đập nát Dốc Miếu, bẻ gãy một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ Mác Na-ma-ra, thì mới phá được thế kìm kẹp của Mỹ - Ngụy đối với hai huyện Do Linh - Cam Lộ, cho nên trận đánh này vô cùng quan trọng, ý nghĩa vô cùng lớn lao: “Đây là trận đánh lớn mở màn cho việc triển khai mặt trận Bắc Quảng Trị. Tiếng súng trên cao điểm Dốc Miếu sẽ có sức vang xa, rung chuyển cả hệ thống phòng thủ kiên cố nhất của Mỹ - Ngụy bên kia tuyến. Trận đánh này sẽ báo hiệu một giai đoạn mới của cuộc chiến đấu, kéo thằng Mỹ ra sát miền Bắc tạo thế tiến công cho cả miền Nam” <29>. Với phương châm đánh nhanh, thắng nhanh, “đặc công đánh tung thâm, bộ binh đánh cường tập vòng ngoài” và dưới sự dẫn đường của tiểu đoàn 47, “cứ điểm kiên cố nhất của phòng tuyến Mác Na-ma-ra đang bị vùi trong lửa” <29; 217>. Chiến công đầu tiên vang dội khắp chiến trường, gieo vào lòng mỗi người dân Quảng Trị niềm tin chiến thắng, họ rất đỗi tự hào về tiểu đoàn 47 - đứa con cưng của mình… Nhưng trận đánh nào mà chẳng có đổ máu, thắng lợi nào mà chẳng có mất mát hi sinh. Lịch, chính trị viên tiểu đoàn 47 đã mãi nằm lại trên chiến trường, anh về với đất mẹ thiêng liêng mà không kịp dặn dò đồng đội, quê hương.
Chiến trường trong Cửa gió là những trận đánh nối dài, và cứ thế trận sau quyết liệt hơn với những bất ngờ khó lường trước được. Sau trận Dốc Miếu, ta lại đối diện với trận càn xe tăng. Xe tăng là một khí giới quân sự hiện đại của Mỹ, khá xa lạ với những người lính trẻ tiểu đoàn 47 mới bước vào chiến trường như: Lợi, Thái, Toản, Kim... Đây là lần đầu tiên chiến sỹ ta chứng kiến, nó ngang dọc như thế này đây, nó như một con quỷ man rợ đang lồng lộn tiến đến muốn nghiền nát toàn trung đội của tiểu đoàn 47: “Từ phía sườn bên kia của khu đồi yên ngựa dậy lên những tiếng rầm rầm như tiếng máy kéo. Rồi đột ngột những tiếng rú nhói lên. Tiếng rú chập vô nhau não nề, rên xiết. Chưa bao giờ Lợi nghe thấy loại tiếng động cơ man rợ như vậy” <29; 225>... Lần đầu tiên quân ta đụng độ với xe tăng địch, đối đầu với lực lượng hùng hậu, khí giới hiện đại, thật quá sức tưởng tượng. Thật quá bất ngờ và bất thường, bởi vì trong phương án tác chiến tiểu đoàn 47 không lường trước được tình thế này, mà chiến sỹ cũng chưa được trang bị vũ khí chống tăng, nên không thể đánh lại kẻ thù... Toàn trung đội của tiểu đoàn 47 cố chống chọi để thoát khỏi vòng vây địch, nhưng thoát được vòng vây này ta lại gặp vòng vây khác, chiến trường là thế. Khi trung đội của Lợi thoát được vòng vây xe tăng, lại giáp mặt với một đại đội Mỹ - Ngụy, và thế là trận chiến giáp lá cà nảy lửa giữa ta và địch trong sự tương quan lực lượng rất lớn diễn ra quyết liệt hơn. Tất nhiên bằng ý chí và nghị lực phi thường, quân ta diệt gọn cả đại đội Mỹ - Ngụy, lập chiến công “làm tiêu hao sinh lực địch”, nhưng trung đội trưởng Toản và năm chiến sỹ khác nữa đã hi sinh: “Sáu liệt sỹ được xếp thành một hàng. Nắng chênh vênh trượt trên vách đá. Đọng lại trong quầng mắt mỗi người nằm xuống hôm nay là bóng râm của đồng đội, những người đang sống ngồi sít lại bên nhau” <29; 237>. Quả đúng là chiến tranh bên cạnh tính chất khốc liệt vốn có của nó, luôn luôn chứa đựng những bất thường khó mà lường trước được, có chiến thắng và có cả những mất mát hi sinh.
Trong Cửa gió Xuân Đức miêu tả hiện thực chiến tranh, song song với những chiến công là những mất mát, tổn thất nặng nề, chỉ có điều sự mất mát, hi sinh ấy được nhà văn cảm nhận và tái hiện lại bằng cảm hứng bi hùng của chủ nghĩa anh hùng. Người đọc cảm nhận được sự thiêng liêng trong những mất mát tổn thất của chiến sỹ ta, bởi các anh sống xứng đáng là anh bộ đội cụ Hồ, chết vì nghĩa lớn “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đây chính là sự tiếp nối của văn học sử thi trước 1975 trong tiểu thuyết Xuân Đức nói riêng và những nhà văn thời kì tiền đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 nói chung.
                Đế quốc Mỹ đã huy động toàn bộ lực lượng ra chiến trường Bắc Quảng Trị, không chỉ là đội quân xe tăng hùng hậu mà còn máy bay tiêm kích L19, và cả máy bay B52, cùng hàng ngàn, hàng vạn tấn bom đạn. Vĩnh Linh giờ đây diễn ra những trận đánh dữ dội hơn, khốc liệt hơn. Xuân Đức lại một lần nữa dày công dựng lại sự khốc liệt ấy của chiến tranh qua những trận đánh sinh động, chân thực và như đã nói ở trên, trận sau quyết liệt hơn trận trước. Bom đạn quân thù thay nhau trút xuống Vĩnh Linh, chúng cày xới, băm nát từng tấc đất quê hương, cả Vĩnh Linh hoang tàn trong tro bụi, lòng đất đau, lòng người càng nhói buốt hơn bao giờ hết, bởi giờ đây miền đất đầu cầu tuyến lửa này “Vĩnh Linh gần như bị phá hủy hoàn toàn, nhưng với ý chí: một tấc không đi một li không rời nhân dân đã kháng cự lại bom đạn... bằng hệ thống hầm hào - địa đạo” <51>. Lúc này đây truyền thống yêu nước và tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược trỗi dậy mạnh mẽ hơn lúc nào hết trong lòng mỗi người dân Vĩnh Linh.
Đó còn là khí thế chiến đấu của quân và dân ta trong trận đánh máy bay địch ở cao điểm 74. Trận địa 74 nằm trên núi Voi “nó như một cái u bò nổi lên giữa vùng đồng bằng khá rộng của xã Vĩnh Thủy” <29; 296>. Lực lượng quân ta lúc này đây gồm tiểu đoàn pháo cao xạ của Tùng phối hợp với tám trận địa của dân quân ba xã của Vĩnh Linh, có nhiệm vụ tiêu diệt máy bay Mỹ - Ngụy. Trận địa phục kích máy bay địch được tác giả thể hiện khá chi tiết về cách bày binh bố trận: “Phía tây cao điểm 74 là hai đại đội 37 li. Đại đội 3 của tiểu đoàn này phối hợp với một đại đội 12 li 7, lực lượng trước đây chuyên bảo vệ đập nước La Ngà bố trí phía đông bắc ngọn đồi. Mặt phía Nam là tám trận địa dân quân gồm cả súng 12 li 7, đại liên, trung liên lẫn súng trường. Còn mặt phía bắc trên sườn đồi, lúp xúp cỏ tranh là trận địa giả bẫy máy bay Mỹ. Gần hai chục "khẩu pháo" bằng gốc phi lao cũng được ngụy trang đầy đủ. Bộc phá chôn hờ trên mặt sỏi, dây điện luồn theo đường hào, luồn tới các hầm cá nhân” <29; 298 - 299>. Toàn bộ người dân Vĩnh Linh cùng với bộ đội pháo cao xạ, quyết tâm tiêu diệt máy bay địch cho nên đã phối hợp nhịp nhàng rất ăn ý để làm nên chiến thắng.
Chiến tranh là tiếng gầm rít, gào xé của bom đạn, là khói bom trên chiến trường không ngớt, súng nổ rung trời chuyển đất. Vĩnh Linh mảnh đất giới tuyến giờ đây là điểm hủy diệt của bom đạn Mỹ - Ngụy. Cuộc đọ sức giữa ta và địch là một cuộc giằng co càng lúc càng quyết liệt: Mỹ sử dụng lối nhảy cóc bất thần đổ bộ để chiếm lĩnh từng cao điểm, kết hợp với khủng bố một cách tàn khốc các ấp giáp ranh để nạo sạch cơ sở Việt cộng. Bộ đội ta lại sử dụng lối “râm ran, rỉ rả” đánh chúng nó, nổ súng đều khắp chiến trường, chặn đứng các cuộc tập kích của địch, đồng thời bền bỉ bám dân, bám đất, lấn nhau với địch từng cơ sở một, với tinh thần: “Cắm sâu, cắm lâu, cắm chắc, nhổ nhanh, nhổ mạnh, nhổ đều”, không cho kẻ địch một phút ngơi nghỉ. Quang cảnh chiến trường lúc này là những con đường bị “bằm xé”, những bìa rừng bị “bừa nát tạo nên những vành đai trắng” <30; 268>.
Cuối tác phẩm, Xuân Đức dày công miêu tả trận đánh cứ điểm đường Chín - Khe Sanh. Đây là trận đánh khốc liệt nhất và cũng oai hùng nhất. Chủ lực của ta vây ép Khe Sanh quyết liệt, sự chống trả của Mỹ cũng đến bước ngông cuồng nhất. Từ mờ sớm “máy bay B52 rạch ngang rạch dọc bầu trời Quảng Trị. Phản lực nhào liệng loạn xạ. Khói bom mờ mịt một góc trời” <30; 343>. Những trận đánh giành nhau từng ngọn đồi nhỏ diễn ra khốc liệt, “bom Mỹ ném như vãi trấu. Pháo của ta cấp tập như giã gạo. Thép chọi thép. Đất Quảng Trị ngỡ như sôi lên, nhão ra trong sức nóng của lửa” <30; 344 - 345>. Chiến trường quả là ngổn ngang, bừa bộn, đây là trận cuối cùng của Mỹ - Ngụy nên chúng dốc toàn lực tấn công ào ạt, mặt đất rung chuyển dữ dội: “Trận địa rung lên, đạn xối từng chùm chụp vào tốp máy bay. Chiếc phản lực đi đầu nhào thẳng ra biển. Khói đùn ra phía sau. Một tiếng nổ "bục". Những chiếc sau cắt bom. Khói. Mảnh bom bay vèo vèo. Tiếng kêu ơi ới. Gió táp vào những tấm lưng trần ngầu ngầu bụi đất và mồ hôi...Mặt đất bật dậy hổn hển... Cứ thế, mặt đất Vĩnh Quang vật vã xáo trộn trong trăm ngàn tiếng nổ chen nhau…” <30; 377 - 378>.
Xuân Đức không chỉ đi vào miêu tả hiện thực chiến tranh oai hùng với những chiến công hiển hách của quân và dân Vĩnh Linh mà ông còn thể hiện khá chân thực những mặt trái, những góc khuất của chiến tranh. Đó là sự chưa thật đoàn kết nhất trí một lòng trong nội bộ cấp ủy của bộ đội ta (cụ thể là trong nội bộ tiểu đoàn 47) như linh cảm của chính ủy Trần Vũ “hình như trong cấp ủy và chỉ huy đại đội trinh sát này cũng đang có một quãng hở. Một sự gián cách về lòng tin, một kẽ hở của sự yêu thương và đùm bọc nhau” <29>, bởi đang tồn tại những con người mang hình thức chủ nghĩa như Vũ Nam Khang chỉ biết nhìn nhận và đánh giá đồng đội ở vẻ bề ngoài, mà không biết hay là cố tình không thấy vẻ đẹp bên trong làm nên phẩm chất anh hùng của họ. Đó là sự hoang mang, thối chí của Hoan - người phụ nữ yếu đuối, trước âm mưu nham hiểm của kẻ thù cô đã gục ngã, khiến cơ sở cách mạng tan rã. Và đó còn là giây phút mất bình tĩnh của tiểu đoàn 47 khi đối diện với xe tăng của địch, cả trung đội bỏ trận địa “chạy thục mạng... Càng chạy càng thấy tiếng rú của xe tăng xô dúi sát phía sau” <29>, chạy trong nỗi sợ hãi, chạy một cách vô định. Mãi một lúc sau, mới bình tĩnh lại, “tất cả đều thấy nhói thắt vùng tim”, “nhục ơi là nhục” <29; 227>, cứ như vậy họ câm lặng sám hối trong đớn đau nhục nhã.
Đó còn là lòng tin của người hậu phương đối với người ra mặt trận cũng dễ bị lung lay: Trận phục kích địch ở Trót Bồng, trung đội của tiểu đoàn 47 không những thất bại, tan tác, mà nguy hiểm hơn, một bức thư viết dở dang của Lợi, chưa viết xong đã rơi vào tay giặc. Kẻ địch lấy đó để đánh vào lòng người ở hậu phương, người hậu phương mắc âm mưu hiểm độc ấy của kẻ thù, đau đớn mất lòng tin ở người con ưu tú của Vĩnh Linh (ông Chẩn, chị Thảo và người dân Vĩnh Hòa cứ đinh ninh là Lợi đã đầu hàng, Thuấn cứ ngỡ là người yêu không chịu nổi gian khổ nên hàng giặc). Lời của nhân vật Phương trong truyện: “đất giới tuyến, thằng Mỹ đánh mình cốt là đánh vô lòng tin. Răng chừ mình hết tin nhau, bạn hết tin bạn, dân hết tin Đảng thì nó thắng” là một sự cảnh tỉnh về lòng tin của hậu phương đối với tiền tuyến.
Đó còn là tinh thần phê bình và tự phê bình của bộ đội. Người chiến sỹ đã thẳng thắn nhìn nhận lại chính mình để điều chỉnh kịp thời tư tưởng, cũng như hành động của mình. Điều đó được thể hiện trong cách rút kinh nghiệm sau mỗi trận đánh. Sự nóng vội muốn lập công của chiến sỹ ta trên chiến trường, để rồi có những suy nghĩ bồng bột và dám nói thẳng những suy nghĩ ấy của mình trước cấp trên: “khi cả đường Chín mở màn đánh lớn, chúng tôi cũng phải bỏ cuộc rút ra. Rút ra chuẩn bị sa bàn, đo đạc tính toán từng quả đồi một, xong đâu đó lại giao cho người khác lập công, mình lại đi. Vậy có phải chúng tôi là người đi dọn bãi cho người khác lập công không?” <29; 351 - 352>.
Chiến tranh đi vào Cửa gió với những ngổn ngang, bề bộn và phức tạp như bản chất nó vốn vậy. Những bất thường khó đoán và những trận đánh quyết liệt được Xuân Đức miêu tả bằng cảm hứng hiện thực sử thi kết hợp nhuần nhuyễn với hiện thực “lịch sử nghiêm ngặt” để rồi hiện thực chiến trường hiện lên vừa sinh động vừa đa diện nhiều chiều.

Sau chiến tranh, hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, người dân Việt Nam vẫn luôn khắc sâu cuộc chiến biết bao hy sinh, mất mát, cùng với niềm kiêu hãnh, tự hào đã chiến thắng giặc ngoại xâm giành lại quyền tự do, hạnh phúc cho cả dân tộc nhưng hậu quả của nó vẫn còn đó, cứ âm ỉ dai dẳng đeo bám cuộc sống con người hậu chiến. Đó là điều thôi thúc Xuân Đức viết Bến đò xưa lặng lẽ, (20 năm sau khi Cửa gió ra đời) viết về những bi kịch, những hệ lụy, những dư chấn mà chiến tranh để lại cho mảnh đất và con người Vĩnh Linh - Quảng Trị.
Trích Trích luận văn Thạc sỹ của Trần Thị Trà My: “CHIẾN TRANH TRONG TIỂU THUYẾT XUÂN ĐỨC (QUA HAI TÁC PHẨM: Cửa gió và Bến đò xưa lặng lẽ)
(Luận văn được bảo vệ tại Trường Đại học Vinh, ngày 25 tháng 10 năm 2014)

  Gửi bởi: Xuân Đức - 15/01/2015

Cảm ơn Trà Mi. Có thể mail toàn bộ văn bản cho bác đọc được không?
  Gửi bởi: Trần Thị Trà My - 16/01/2015

Dạ!
Thời gian tới cháu sẽ sắp xếp công việc vào thăm Bác cùng gia đình.

Nhận xét

Chia sẻ cho bạn bè

Bài viết liên quan